Vào ngày 8/5/1987, tôi đã sinh một bé gái xinh đẹp với mái tóc vàng óng và đôi mắt xanh biếc.
Chỉ vài phút sau đó, bác sĩ nói vơi tôi rằng cô bé bị hội chứng Down.
Ông
ấy nói rằng chúng tôi có thể yêu thương nhưng đừng kỳ vọng quá nhiều ở
cô bé. Cô bé có thể không bao giờ biết đi, có thể không biết nói hay
chơi đùa như những đứa trẻ khác. Ông ấy nói rằng chúng tôi hãy nghĩ đến
việc gửi bé vào một viện từ thiện nào đó dành cho trẻ em kém may mắn
trong tương lai.
Và tôi nói luôn rằng không bao giờ. Tôi sẽ nuôi cô bé như nuôi những đứa con khác của mình.
Và
Kathy là cô bé tuyệt vời nhất mà tôi từng biết.Bé ất ngoan, chỉ khóc
khi đói và rất hiếm khi quấy. Tôi rất thích bế bé và ru bé ngủ. Ai bế
Cathy cũng cảm thấy lòng bình yên lạ thường.
18 tháng tuổi, Cathy bắt
đầu biết đi và bày trò nghịch ngợm. Kathy và Andrew, cậu anh trai 3
tuổi suốt ngày chơi cùng nhau, nhưng Kathy có vẻ tò mò hơn nhiều.
Có
một điểm giống nhau là cả hai đứa đều thích nghe nhạc. Với Andrew, âm
nhạc có tác dụng “làm dịu”, nó thường bớt nghịch ngợm khi nghe nhạc. Còn
với Kathy, âm nhạc cho cô bé cơ hội để “rung lắc”. Cô bé rất thích nhảy
múa. Ngay khi đang ngồi, nếu nghe thấy một bài hát mình ưa thích, cô bé
sẽ đứng ngay lên, lắc lư vui vẻ.
Khi Kathy lên 3 tuổi, tôi mua cho
cô bé một chiếc vòng có đính quả chuông để đeo vào mắt cá chân. Cô bé
suốt ngày đeo chiếc vòng, nhảy cho chiếc chuông kêu leng keng đến khi
nào mệt mới thôi.
Khi Kathy lên 8, tôi cố xin cho cô bé vào một lớp mùa ba lê nhưng cô giáo từ chối.
Hai
năm sau, một giáo viên mở trường khiêu vũ ở gần nhà. Tôi đến nói chuyện
với cô giáo và cô ấy nói rằng cô không chắc mình có thể dạy Kathy điều
gì không, nhưng cô tin rằng múa sẽ tốt cho tâm hồn của Kathy.
Năm đầu
tiên, cô giáo xếp Cathy vào cùng lớp với những đứa trẻ bình thường.
Kathy rất cố gắng nhưng rõ ràng cô bé không bắt kịp các bạn.
Năm sau
đó, cô giáo mở riêng một lớp cho những “học viên đặc biệt”. Kathy được
vào lớp đó với hai cô bé bằng tuổi và vài học viên lớn hơn.
Lớp học
đặc biệt này đã giành được sự cổ vụ nồng nhiệt của khán giả vào dịp cuối
năm. Ai cũng thích tiết mục đó, và vỗ tay theo tiếng nhạc.
Năm Cathy
16 tuổi, cô giáo quyết định rằng cô bé sẽ múa solo trong buổi biểu diễn
cuối năm học. Kathy đã rất cố gắng và tiết mục đó được hoan nghênh
nhiều nhất – khán giả đứng cả lên vỗ tay và tôi thấy mắt ai cũng ướt.
Trong
mấy năm sau đó, Kathy thường múa hoặc khiêu vũ solo ở nhiều trường học
và các show diễn vì cộng đồng. Kathy cũng thường được mời tới biểu diễn ở
trường học dành cho trẻ em khuyết tật.
Bây giờ thì Cathy đang học
đại học ở một thành phố khác, nhưng cuối tuần nào cô bé cũng về nhà và
vẫn thích múa. Cô bé mang sự ngạc nhiên tới bất kỳ nơi nào mình biểu
diễn, và luôn mỉm cười tươi rói cũng như nói “xin cảm ơn” mỗi khi được
ngợi khen.
Kathy là một báu vật của tôi, không chỉ vì dù biết rằng
mình khác biệt, cháu vẫn không ngừng cố gắng, mà còn bởi có Kathy, tôi
mới hiểu rằng với một bà mẹ, yêu thương nghĩa là không bao giờ bỏ cuộc.
Glenda Townsend