Dừa
nước (Nypa fruticans), còn được gọi là Attap palm (Singapore), Nipa
palm (Philippines), Mangrove palm hoặc Nipah palm (Malaysia), là loài
duy nhất trong họ Cau (Arecaceae) sinh sống trong đầm lầy. Loài dừa
nước, duy nhất trong chi Nypa[1], sinh trưởng tại miền nam châu Á và bắc
Úc. Hoá thạch của phấn hoa dừa nước đã được xác định niên đại đến 70
triệu năm về trước.
|
Thân
cây dừa nước mọc ngang dưới lòng đất, chỉ có lá và cuống hoa mọc lên
trên mà thôi. Vì vậy, nó không được xem như một loại cây gỗ, mặc dù tán
lá có thể cao đến 9 mét. Hoa cái nở rộ thành chùm ở đầu cụm hoa hình
cầu, hoa đực màu đỏ hoặc vàng dạng đuôi sóc trên những nhánh kế sau. Khi
hoa đã thụ phấn, những trái nhỏ ép vào nhau lớn lên thành như một quả
bóng đường kính cỡ 25–30 cm trên mỗi đầu cuống (quài dừa). Hạt dừa nước
khô già sẽ rơi rụng và phân tán theo thuỷ triều, có khi mọc mầm ngay khi
trôi nổi.
Dừa
nước mọc trong những vùng sình lầy dọc theo bờ sông, hay vùng ven cửa
biển có thủy triều lên xuống, có nước chảy chậm bồi đắp phù sa dinh
dưỡng. Nếu để tự nhiên, dừa nước sẽ phát tán sinh sôi nảy nở theo sự đưa
đẩy của thủy lưu. Dừa nước rất thường gặp dọc theo bờ biển và các cửa
sông đổ vào Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, từ Bangladesh
tới các hải đảo Thái Bình Dương. Loài dừa nước có thể sống còn qua một
thời kỳ khô ráo ngắn hạn. Dừa nước được coi như một loài thực vật đang
có nguy cơ bị tuyệt chủng tại Singapore.
Công dụng
Lá dừa nước dược dùng nhiều nhất vào việc chầm lá để lợp nhà, làm rổ rá, rất phổ thông ở những vùng Nam Bộ Việt Nam và nhiều địa phương của các nước lân cận.
Cuống hoa dừa nước (quài dừa) chưa nở hoa có thể được trích lỗ hứng nhựa ngọt làm một thứ rượu mà người Philippines gọi là tuba.
Họ cũng để nhựa ấy tự lên men thành một loại dấm nguyên chất, đặc sản
của tỉnh Paombong, Bulacan. Mầm dừa non ăn được, cũng như những cánh hoa
nở có dùng như trà (chè). Cái (thịt) dừa non thì dược dùng vào các món giải khát khác nhau, tuỳ theo quốc gia kể trên. Trên đảo Roti và Savu, người ta cho lợn (heo) ăn dừa nước vào mùa khô để thịt heo sẽ ngọt. Lá dừa nước thật non còn dược dùng để làm giấy vấn thuốc lá.
Mật nhựa dừa nước có nồng độ đường rất cao. Khi dùng để lên men rượu cồn, 1 ha có thể sản xuất được 15.000 đến 20.000 lít nhiên liệu xanh, so với 5.000-8.000 lít nếu dùng mía đường, hay 2.000 lít nếu dùng ngô (bắp).
Khai thác dừa nước là một truyền thống lâu đời ở Đông Nam Á khi mà một bộ phận khá lớn cư dân các vùng duyên hải Tây Thái Bình Dương lấy dừa nước làm nguồn thu nhập chính.
Hoa dừa nước
Ở Philippines,
93% cồn và rượu được sản xuất chủ yếu từ dừa nước trong năm 1910, sản
lượng lúc đó đã lên đến 90.000 lít. Giấm dừa nước là nguyên liệu tuyệt
vời để chế biến các món ăn hấp dẫn tại các nhà hàng ở Thái Lan và Philippines. Ở Malaysia, đường dừa nước có mùi vị thơm ngon là một mặt hàng xuất khẩu.
Ở Việt Nam, nông dân ngày nay mới chỉ sử dụng trái dừa nước để ăn và lá để lợp nhà hay làm củi, không mấy ai biết đến kỹ thuật rút nhựa dừa nước từ cuống hoa để nấu đường, ủ rượu, làm bia, lên men giấm,
chưng cất cồn và một số loại sản phẩm có giá trị khác trong khi đó lại
là nguồn thu nhập ít có hiệu quả nhất của dừa nước. Sản lượng đường dừa
nước trung bình 20,3 tấn/ha cao hơn so với đường mía (khoảng 5 đến 15
tấn/ha).
Phải
đến năm thứ 4 hoặc thứ 5 cây mới đơm hoa cho trái. Thời gian này sẽ kéo
dài đến năm thứ 55 trở lên, nghĩa là mỗi cây dừa nước có thể khai thác
liên tục trên 50 năm. Mỗi ngày 2 lần, người ta dùng dao sạch cắt bỏ một
lát mỏng 2 mm trên đầu cuống để nhựa cây chảy ra liên tục.
Ở các đồn điền tại Sumatra, Indonesia,
cứ mỗi 10 hecta cần đến 38 người lao động: 30 người cho việc lấy nhựa, 5
người cho việc tỉa gốc và xử lý cơ học cuống hoa, 2 người cho việc
chuyên chở và 1 người cai quản. Sản lượng đường đều đặn tại nước này vào
khoảng 22,4 tấn/ha/năm.
Quả Dừa nước
Lợi ích sức khỏe và Y học truyền thống
Theo Đông y, Dừa nước có công dụng tương đương nhưng khí âm hàn nhiều hơn Dừa:
ngọt mát, không độc, giúp tăng cường khí lực, tươi nhuận nhan sắc, giải
nhiệt, cầm máu nên rất tốt khi điều trị cảm nắng, thổ huyết, máu cam.
Nguồn: Wikipedia