Quả mơ, nước mơ, dầu mơ là những loại thức
ăn truyền thống của nhiều dân tộc. Tuy nhiên, việc sử dụng hoạt
chất amygdalin từ hạt mơ trong điều trị ung thư còn có nhiều ý
kiến khác nhau. Trong lịch sử phát hiện, chế biến và sử dụng
thuốc chữa bệnh, có lẽ chưa có loại thuốc nào gặp phải nhiều
thách thức và cản ngại trên đường đến với người bệnh như Vitamin
B17, hoạt chất amygdalin từ các loại hạt.
Laetrile là gì?
Vào năm 1803, Pierre-Jean
Robiquet và A. F. Boutron-Charlard đã trích
xuất được hợp chất Amygdalin có công thứcC20H27NO11
từ hạt hạnh nhân đắng. Sau đó người ta cũng tìm thấy hợp chất
nầy từ hàng ngàn loại hạt khác, nhiều nhất ở hạt đào, hạt mơ.
Amygdalin cũng có tên là Laetrile, Nitriloside hay
Vitamin B17. Tên gọi Vitamin B17 (B17) dành cho Laetrile có
nguồn gốc từ Tiến sĩ Ernst Krebs Jr. với quan điểm nó là một
loại thực phẩm dinh dưỡng. Laetrile là một hợp chất hoá học,
khi vào cơ thể, dưới sự xúc tác của các enzym có sẵn trong hạt
và những enzym khác trong ống tiêu hoá sẽ phóng thích ra
benzaldehyde, hydrocyanide acid (HCN) và 2 phân tử đường. HCN
là một hợp chất chống phát triển khối u và giảm đau được dùng ở
một số nơi để phòng chống ung thư. Laetrile đã được dùng để
chữa ung thư ở Nga, ở Mỹ từ năm 1920. Laetrile được sản xuất
công nghiệp lần đầu tiên từ hạt mơ có 2 tên thương mại là
Aprikerrn và Bee Seventeen. Aprikern có nghĩa là hạt mơ,
chữ ghép lại của 2 từ Apricot (quả mơ) và Kernel
(phần nhân, phần hạt). Người ta cũng phân biệt Laetrile
được sản xuất, cấp phép sử dụng ở một số nơi ở Mỹ là Laetrile
nhân tạo được làm bằng cách tổng hợp, trong khi sản phẩm cùng
tên sản xuất và sử dụng ở Mexico là loại có nguồn gốc tự nhiên
được chế bằng cách nghiền nát hạt mơ.
Hạt mơ, quả mơ và những món ăn
truyền thống.
Quả mơ, hạt mơ,
nước mơ, dầu mơ đã từng là những loại thực phẩm truyền thống
của nhiều dân tộc hoặc nhiều bộ lạc khác nhau, người Abkhasian ở
Liên xô, Hunza ở Pakistan, bộ lạc Vilcabiumba ở Ecuador, một số
bộ lạc ở Nigeria. Ở nước ta, sản phẩm thông dụng nhất từ mơ là
nước mơ và ô mai. Trong quyển sách Hunza Health Secret,
khi mô tả lối sống trường thọ, mạnh khoẻ và năng
động của những người Hunza, tác giả Renee Taylor đã cho biết dân
ở đây đã tìm thấy một nguồn chất béo thực vật rất quý trong hạt
mơ. Nhiều nghiên cứu sau nầy đã cho thấy dầu thực vật có hàm
lượng cao các loại acid béo chưa bão hoà hữu ích cho hệ tim mạch
và hoạt động thần kinh Dầu hạt mơ có vai trò rất quan trọng
trong cuộc sống ở Hunza. Thậm chí việc gả chồng cho con gái
cũng dựa vào yếu tố chàng trai có được bao nhiêu gốc mơ trong
vườn nhà anh ta. Hunza là một khu vực thung lũng trong dãy Hy
Mã Lạp Sơn rộng khoảng 600 dặm vuông, cao khoảng 8000 feet khỏi
mặt nước biển. Những phụ nữ ở đây đã truyền cho nhau từ thế hệ
nầy sang thế hệ khác về cách sử dụng những món ăn từ quả mơ, hạt
mơ. Họ dùng mơ dưới mọi hình thức. Mơ được chế thành
bột nhồi, mứt, bánh mì và
nước mơ. Dầu mơ để chiên xào, trộn salad, làm thuốc để đẹp da
và đẹp tóc. Hạt mơ cũng được cắn bể để ăn phần hạt bên trong.
Ở đây, người ta ăn mơ tươi 3 tháng mỗi năm, những tháng còn lại
ăn mơ khô, ăn cả phần hạt bên trong.
Con đường lao khổ của những chiến sĩ kiên trung vì lời thề Hypocrate.
Năm 1973, hai loại sản phẩm công nghiệp đầu
tiên từ hạt mơ, Aprikern và Bee Seventeen được bào chế thành
viên nhộng dạng bột có ghi rõ là sản phẩm từ loại hạt ăn được.
Tuy nhiên chỉ sau 3 tháng lưu hành, ngày 23.11.1973 lệnh cấm lưu
hành và sử dụng được ban hành bởi FDA, cơ quan quản lý thuốc và
thực phẩm Hoa Kỳ. Cơ quan này đã cho rằng B17 có độc tính và
không có hiệu quả. Vào khoảng tháng 12/1975, cảnh sát liên bang
Hoa Kỳ đã chặn bắt một chuyến hàng Laetrile dưới dạng viên và
thuốc chích đang trên đường vận chuyển ở Rochester, Minnesota.
Trước đó 3 ngày, ông Robert W. Bradford, một kỹ sư điện, kỹ
thuật viên phòng thí nghiệm, cũng bị bắt giữ khi đang nhận
Laetrile từ 2 người Mexico. Ông
Bradford là Chủ tịch Uỷ Ban về Quyền Tự Do chọn lựa trong điều
trị ung thư (Committee for Freedom of Choice in Cancer therapy).
Uỷ Ban nầy đã được thành lập trước đó không lâu với 28.000
thành viên bao gồm 1.100 nhân viên y tế với 800 Tiến sĩ y
khoa để tranh đấu cho quyền tự do hành nghề của Bác sĩ cũng như
tự do chọn lựa cách trị liệu không độc hại cho người bệnh.
John A. Richardson là một bác sĩ người Mỹ đã tiên phong trong
liệu pháp dinh dưỡng. Ông đã không ngừng cổ xuý và công
khai dùng B17 và cách ăn uống truyền thống để điều trị cho bệnh
nhân ung thư. Cuối năm 1976, ông đã bị bắt vì sử dụng
Laetrile. Cảnh sát cũng đã đột kích vào Bệnh viện của ông, hành
hung, còng tay và bắt đi 2 nhân viên, một nam và một nữ trong
bệnh viện. Không lâu trước đó, năm 1975, Bác sĩ James Privitera
ở West Covina, California, người đã công khai sử dụng B17 như
liệu pháp dinh dưỡng bị ngưng hành nghề và phải ra trước Uỷ Ban
Kiểm Soát Y Khoa vì đã sử dụng những liệu pháp chưa chứng minh
được.
Trong khi những việc cấm đoán tiếp tục
diễn ra như trên thì hàng ngàn người Mỹ vẫn phải sang các bệnh
viện ở Tijuana, Mexico để được chữa trị bằng B17. Những người
giàu hơn có thể đi đến Tây Đức hoặc một nơi khác để được dùng
B17 hoặc những liệu pháp “phi chính thống” tương tự. Khi trở
lại, lúc đi ngang qua biên giới, họ phải cất dấu số lượng thuốc
mang theo vì phải đối mặt với sự tịch thu bất cứ lúc nào. Với
ảnh hưởng của các cơ quan truyền thông, phong trào đòi quyền sử
dụng B17 càng lan rộng. Một Uỷ Ban thỉnh nguyện việc lập tức
thử nghiệm tác dụng của B17 đã ra đời. Ngày 26.2.1974, một bản
thỉnh nguyện thư (the Test Laetrile Now Petition) mang theo
8.000 chữ ký, đại diện cho 43.000 bệnh nhân ung thư đã được gởi
đến Tổng thống Nixon và các Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội Mỹ. Bản
thỉnh nguyện thư có ghi “mỗi người trong số 43.000 nạn
nhân bệnh ung thư sẵn lòng tham gia vô điều kiện vào bất cứ cuộc
thử nghiệm y khoa nào được tổ chức để kiểm tra tác dụng của thực
phẩm chức năng có chứa Laetrile”
B17 độc và không độc.
HCN, hoạt chất chính trong B17, là một chất có độc tính. HCN
tác dụng trên trung khu thần kinh, với liều nhỏ gây hưng phấn,
liều lớn gây ức chế, có thể dẫn đến hôn mê. FDA cho rằng với
liều trung bình 2mg HCN mỗi viên thì 5 viên có thể gây ngộ độc
cho trẻ em và 20 viên sẽ độc cho người lớn. Tuy nhiên,
lý lẽ mà những nhà khoa học bảo vệ
B17 đưa ra lại khác. Liều lượng HCN có trong hạt mơ hoặc liều
dùng hàng ngày là không đáng kể và tổng lượng mà FDA đã gợi ra
để cho rằng có độc tính không hề xảy trong điều kiện thực tế.
Trong những cộng đồng có truyền thống sử dụng các thực phẩm từ
quả mơ, chưa có một thông tin nào cho thấy có xảy ra ngộ độc vì
ăn hạt mơ, hay dầu mơ.
Các nhà khoa học giải thích,
không giống như HCN trong thí nghiệm của FDA, dưới sự hiện diện
của những enzym có sẵn trong hạt mơ và những enzym khác trong
dịch tiêu hoá, lượng HCN sẽ được phóng thích và hấp thu từ từ mà
không sợ tổn hại cho cơ thể. Một luận điểm đáng chú ý nữa là
một loại thuốc thường được sử dụng khi cân phân giữa hiệu quả và
độc tính, giữa lợi và hại, khi mà điều lợi là cần thiết và luôn
lớn hơn điều hại. Penicillin có thể gây ra những phản ứng nguy
hiểm nhưng vẫn được lưu hành, nhân sâm đại bổ nhưng vẫn có những
trường hợp vừa uống vào khỏi cổ đã tử vong. Cụ thể ở bệnh ung
thư, hoá chất
xạ trị và B17, cái
nào độc hơn cái nào. Vậy mà
xạ trị vẫn gián tiếp được khuyến khích sử dụng và luôn được FDA
bảo vệ! Cũng cần nói thêm, không chỉ có B17, hạt mơ còn có B15
tức acid pangamic, được tìm thấy năm 1951 và được xem là một
chất dinh dưỡng hữu ích trong nhiều bệnh về tim, gan, phổi như
viêm gan, xơ gan. Ngoài ra, hạt mơ còn có nhiều chất khoáng và
chất chống oxy hoá khác để tạo nên một nhóm chất hổ tương,
chất nầy làm tăng hiệu lực của chất kia để nâng cao sức
miễn dịch và chống thoái hoá tế bào. Do đó, B17 trong
liệu pháp dinh dưỡng hoàn toàn khác với hoá chất HCN!
Không riêng gì những hợp chất có độc tính, giá trị bổ
dưỡng hoặc trị liệu của một món thực dưỡng sẽ khác nhau do cách
chế biến. Chẳng hạn cà chua có tác dụng chống ung thư. Tuy
nhiên ăn cà chua sống không bằng cà chua nấu chín. Ăn nguyên quả
cà chua tác dụng cao hơn nhiều so với ăn chất chiết xuất
carotenoids từ cà chua. Sau nầy một nghiên cứu ở Mỹ cũng cho
thấy là ăn các loại thực phẩm tự nhiên có chứa các sinh tố B6,
B12 và Folate sẽ giảm nguy cơ ung thư tuỵ tương ứng là 81%, 73%
và 52%. Ngược lại những người
dùng các viên sinh tố tổng hợp có các sinh tố trên chẳng những
không giảm mà còn tăng nguy cơ ung thư tuỵ lên đến 139%.
Ngoài ra, cũng nên biết rằng hợp chất amygdalin còn được tìm
thấy trong rất nhiều loại hạt và rau củ khác như hạt kê, hạt
đay, hạt mè, hạt hạnh nhân, hạt mận, hạt lê, hạt cherry, khoai
mì, hạt đào. (B17 không có trong hạt điều, hạt chanh).
Trong khi hạt mơ chỉ có khoảng 3% thì tỷ lệ nầy trong hạt đào là
3,5%. Vậy mà hạt đào, thường gọi là
đào nhân lại là một vị thuốc rất phổ biến trong
Đông y. Đào nhân có tác dụng phá huyết ứ, nhuận táo, hoạt
trường. Liều dùng trung bình của đào nhân từ 6 đến 12g mỗi ngày.
Sách Nam Dược Thần Hiệu có ghi lại 2 phương thuốc
mà vị đào nhân có thể dùng với liều cao hơn nhiều. Bí đại
tiện, dùng 40g đào nhân luộc ăn cả lúc bụng đói.
Ho hen, thở ngắn, dùng 100g đào nhân giã
nát, cho vào một bát nước lắng lấy nước cốt nấu cháu với gạo tẻ.
Hiệu quả hay không hiệu quả ?
Từ những năm 1950s, nhiều nơi trên thế giới
đã chú ý đến giá trị của B17. Theo Tiến sĩ Manuel D. Navarro,
Giáo sư sinh hoá ở trường Đại học Santo Tomas, Manila,
Philippines ”Laetrile là loại thuốc lý tưởng để điều trị
ung thư”. Tiến sĩ Ettore Guidetti thuộc
trường Đại học Turin, Ý cũng đã báo cáo trước Liên
Đoàn Ung Thư Quốc Tế (International Union Against Cancer) vào
năm 1954 rằng có thể điều trị cho bệnh nhân ung thư bằng
Laetrile mà không cần phải giải phẫu. Tiếp theo, đã có nhiều
nhà khoa học thuộc các nước khác nhau như Anh, Bỉ, Nhật, Ý,
Canada hoặc đơn độc hoặc hợp tác trong nhiều nghiên cứu y khoa
về tác dụng của B17. Ở Mỹ, Tiến sĩ John A, Morron, trên cơ sở
hợp tác nghiên cứu với những tổ chức ở Canada, đã viết một báo
cáo về những bệnh nhân ung thư được điều trị với B17. Báo cáo
được phổ biến trên tạp chí Experimental Medicine and Surgery
(số 4, 1962) có ghi rõ “những kết quả gây ấn tượng dặc
biệt về giảm đau”. Sau một hoặc 2 lần chích B17, có 5
trong số 10 bệnh nhân có cơn đau đã biến mất hoàn toàn. Trong
bảng tóm tắt, ông lưu ý đến những hiệu quả giảm đau, giảm mùi
hôi thối, phát triển cảm giác thèm ăn và giảm viêm sưng nơi khối
u.
Trong quyển sách Freedom from cancer
của Macheal L. Culbert, ký giả báo Berkeley Daily Gazette,
đã kể lại một trường hợp ung thư giai đoạn cuối được chữa khỏi.
Một thanh niên 18 tuổi ở Plainview đã được xét nghiệm và chẩn
đoán là ung thư dịch hoàn giai đoạn cuối ở Bệnh viện Minnesota,
đã trải qua phẫu thụât ở Bệnh viện Mayo. Sau đó, Bác sĩ điều
trị cho biết cần phải tiếp tục xạ trị. Cũng vào thời điểm nầy
cha mẹ cậu nghe nói về B17. Tháng 1.1972, ông bà quyết định đưa
cậu sang Bệnh viện Contreras ở Tijuna, Mexico, không xa lắm từ
Minnesota. Trong thời gian ở đây, từ tháng 1 đến tháng 5.1972,
cậu thanh niên được chích B17, thêm một số sinh tố, và một chế
độ ăn khá nghiêm nhặt. Sau đó, cậu trở về nhà và được tiếp tục
dùng B17 dưới dạng thuốc viên. Đến tháng 9.1972, tất cả các xét
nghiệm kiểm soát bởi các bác sĩ người Mỹ ở địa phương đã cho
biết cậu đã hoàn toàn khỏi bệnh.
Chân lý bị che mờ?
Vào tháng 1.1975, Tiến sĩ Chester Stock,
Phó Chủ tịch Hội Nghiên Cứu Ung thư Sloan-Kettering ở Newyork
(SK) khi trả lời phỏng vấn cho đài truyền hình Canada đã cho
biết là đã có những kết quả “rất có ý nghĩa” khi
thử nghiệm B17 trên loài chuột. Tuy nhiên, vấn đề cũng chỉ dừng
lại ở đó và không có sự công bố chính thức. Đến tháng 7.1975,
một phát ngôn viên của SK, khi trả lời phỏng vấn báo New York
Times đã phủ nhận thông tin trên và nói rằng những thử nghiệm
trước đó của Tiến sĩ Sugiura không được công nhận, dù cho vị nầy
là một nhà khoa học hàng đầu về lãnh vực nầy lúc bấy giờ. Đặc
biệt, vào ngày 23.8.1975, phóng viên Culbert đã nhận được một
bức thơ nặc danh có tiêu đề của hội SK (được gởi đến từ một viên
chức của SK) kèm theo 32 trang giấy mô tả đầy đủ quá trình của 6
cuộc thử nghiệm B17 trên loài chuột. Nghiên cứu được thực hiện
bởi Tiến sĩ Sugiura thuộc SK trong khoảng thời gian từ 3.8.1973
đến ngày 8.2.1975. Tất cả các thử nghiệm đều cho thấy những tác
động tích cực của B17 trên những con chuột bị ung thư, nhất là
tác dụng phong toả khối u, không cho di căn. Bức thư viết
“Đây là một số kết quả thí nghiệm của Sloan-Kettering với
Laetrile. Vì những áp lực chính trị, những kết quả nầy đã bị
bưng bít, xin hãy cố gắng hết sức để những dữ liệu quan trọng
này nhận được sự chú ý của công luận”.
Vào những năm 1970s, những báo cáo về sử
dụng B17 từ Bác sĩ Ernesto
Contreras có lẽ đáng lưu ý hơn cả. Tiến sĩ Contreras tốt
nghiệp Đại học Quân y Mexico, nghiên cứu sau đại học ở Boston,
là Giám đốc Bệnh viện Del Mar ở Tijuna, Mexico. Báo cáo sơ khởi
về 500 trường hợp giữa 1963 và 1967 cho biết B17 có hiệu quả tốt
trong 64% và 36% không đáp ứng. Đến 1976, theo hồ sơ y khoa của
trên 10.000 bệnh nhân trong thời gian 14 năm, con số là 67% đáp
ứng tích cực. Đáp ứng mà ông mô tả được ở các bệnh nhân gồm gia
tăng sự bình an, giảm hoặc mất hẳn cảm giác đau đớn, lấy lại sắc
diện, thèm ăn và tăng cân. Ông không dùng từ chữa khỏi (cure)
mà là kiểm soát (control). Một số đã kiểm soát hoàn toàn căn
bệnh. 35% đã không đáp ứng gì với B17. Trong số 65% đáp ứng
thì có khoảng phân nửa trong số nầy đã có dấu hiệu bệnh tái lại
sau khi phục hồi được một thời gian. Số còn lại từ sự hồi phục
từng phần các triệu chứng cho đến biến mất hoàn toàn tất cả các
triệu chứng. Báo cáo cũng cho thấy hầu hết bệnh nhân ung thư
của ông là người Mỹ, 90% số này là ung thư giai đoạn cuối, những
người đã được chẩn đoán và xác định là chỉ còn sống một thời
gian ngắn, vài ngày, vài tuần họăc vài tháng.
Ở những bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối,
tỷ lệ 30% đáp ứng tốt quả là đáng khích lệ. Tuy nhiên, vào
khoảng 1982, dưới sự bảo trợ của NCI, Hội Ung Thư Quốc Gia Mỹ,
một cuộc nghiên cứu được thực hiện ở Bệnh viện Mayo Clinic và 3
Trung Tâm Nghiên Cứu Ung Thư khác ở Mỹ trên 178 bệnh nhân ung
thư đang phát triển lại được báo cáo là không chứng minh được
hiệu quả gì trong điều trị ung thư! Một số trường hợp khối u đã
phát triển hoặc có dấu hiệu ngộ độc HCN! Những người bảo vệ B17
không tỏ ra tin tưởng lắm độ xác thực của những dữ liệu nầy. Đó
là chưa kể đến yêu cầu quan trọng của một liệu pháp dinh
dưỡng là phải kèm theo một chế độ ăn nghiêm nhặt và B17 được sử
dụng phải là loại có nguồn gốc thiên nhiên chớ không thể là loại
hoá chất Laetrile, nhãn hiệu được cấp phép sản xuất tổng hợp ở
Mỹ và là loại được sử dụng trong những nghiên cứu này.
Chuyện không có hồi kết.
Tịch thu, bắt bớ, cấm đoán kể trên là dạo
những năm 1970s. Đó là những cao điểm trong phong trào đòi
quyền bình đẳng cho B17 và việc tự do hành nghề, tự do sử dụng
B17 trong điều trị ung thư ít tốn kém và không độc hại. Đến
nay, gần 40 năm trôi qua, trong số những người đã tranh đấu vì
B17, nhà khoa học, bác sĩ điều trị hoặc bệnh nhân ung thư thì
một số đã ra đi mà chưa thấy được kết quả. Cho đến nay, chỉ có
19 tiểu bang trong số trên 50 tiểu bang của Hoa kỳ cho phép bán
vị thuốc này với một số hạn chế về phương thức sử dụng.
Cụ thể, tại
California, nơi khởi xướng việc sử dụng B17, nơi mà B17 bị triệt
để săn lùng và cấm đoán từ những năm 1970s thì đến nay tình hình
vẫn không thay đổi, B17 vẫn là món thực dưỡng vô thừa nhận!
Vào những năm
1970s, lý thuyết về những chất chống oxy hoá chưa được quan tâm
nhiều, những người bảo vệ liệu pháp dinh dưỡng lúc đó đã cho
rằng ung thư là một loại bệnh do thiếu dinh dưỡng. Giống như
thiếu Vitamin C sẽ bị bệnh Scurvy, thiếu Vitamin B3 sẽ bị
Pellagra, thiếu B17 sẽ dễ dẫn đến ung thư. Như vậy, là một loại
sinh tố, một thực phẩm chức năng thì vì lẽ gì nó đã bị cấm
đoán? Phải chăng chỉ vì “có độc tính” hoặc “không hiệu quả”?
G. Edward Friffin, tác giả quyển sách World without
Cancer:The Story of Vitamin B17 cho rằng không thể tìm
thấy câu trả lời từ phương diện khoa học mà phải từ phương diện
chính trị, trên cơ sở những quyền lực của những tập đoàn kinh
tế. Ông cho rằng hàng năm có hàng tỉ đô la bỏ ra cho việc
nghiên cứu và hàng tỉ đô la khác cho việc sản xuất thuốc trị ung
thư. Có lẽ số người sống nhờ vào bệnh ung thư còn nhiều hơn cả
số bệnh nhân chết vì ung thư. Nếu giải pháp chữa ung thư hoặc
phòng được bệnh ung thư chỉ bằng một loại sinh tố hoặc những
thực phẩm chức năng đơn giản, dễ tìm, hoặc ít tốn kém thì chẳng
lẽ kỹ nghệ đồ sộ về ung thư phải bị xóa sổ hay sao?
Có thể đó là những
suy nghĩ qua khích. Tuy nhiên, ung thư là một kẻ thù nguy hiểm
của nhân loại, đang bành trướng với tốc độ nhanh trong những năm
gần đây. Do đó, bất cứ liệu pháp nào hoặc chất nào có khả năng
điều trị hoặc có thể giúp vơi bớt nổi đau của người bệnh đều cần
được đầu tư nghiên cứu.
B17 và liệu pháp tự nhiên.
HCN là một chất
độc. Theo quan điểm về thực dưõng phương Đông, Laetrile tổng hợp
cũng là một hoá chất độc hại. Tuy nhiên, quả mơ, hạt mơ là
những thực phẩm bổ dưỡng truyền thống. Quả mơ có nhiều chất
chống oxy hoá mạnh như Vitamin C, caroten, lycopen, quercetin.
Khi ăn nguyên quả mơ, chất xơ và những vi chất khác trong quả
sẽ giúp cho các chất - kể cả HCN - được chuyển hoá phù hợp và
hữu ích nhất cho cơ thể mà không sợ độc hại, miễn là không ăn
quá nhiều cùng một lúc.
Mỗi người
có thể ăn khoảng 10 quả mơ mỗi ngày, ăn cả hột, ăn mỗi lần từ 1
đến 2 quả, ăn nhiều lần trong ngày mà không sợ nhiễm độc. Khi
cần ăn nhiều hạt hơn, nên luộc chín trước khi ăn.
Không có một liệu
pháp nào hoặc một loại chất, loại hạt đơn độc nào có thể đảm bảo
chữa khỏi được ung thư. Bệnh ung thư là bệnh của hệ miễn dịch,
chữa khỏi bệnh phải bao gồm nhiều biện pháp tổng hợp để nâng cao
sức miễn dịch. Hiện nay nhiều nghiên cứu đã cho thấy nhiều chất
chống oxy hoá trong các loại hạt thô và rau quả có tác dụng
trung hoà những gốc tự do, nâng cao sức miễn dịch, bảo vệ màng
tế bào qua đó đảo ngược tiến trình ung thư hoá. Điều cần lưu ý
là không thể chỉ ăn một loại hạt hoặc một loại rau quả, dù đó là
loại có một vài chất chống oxy hoá cực mạnh. Các nhà khoa học
đều đồng ý rằng những vi chất dinh dưỡng đều hoạt động theo
nhóm, sự hiện diện của chất này sẽ làm tăng tác dụng của chất
kia. Do đó cần ăn đa dạng nhiều loại rau củ quả, ngũ cốc và các
loại đậu mè khác nhau vừa bảo đảm đủ những nhóm chất cơ bản,
vừa đủ những vi chất và chất chống oxy hoá cần thiết.
Ngoài ra,
việc phòng chống ung thư sẽ không hữu hiệu nếu việc ăn nhiều
hạt, rau quả không kèm theo các biện pháp nhằm giảm thiểu những
gốc tự do hoặc chấm dứt việc phơi nhiễm những tác nhân gây ung
thư. Do đó, vận động hợp lý, thực hành thư giãn, sinh hoạt lành
mạnh, không hút thuốc, uống rượu, tránh ăn các thực phẩm chế
biến công nghiệp và các loại đạm động vật luôn là những biện
pháp quan trọng trong việc chữa bệnh cũng như ngăn chận bệnh tái
phát.
Lương y VÕ HÀ
Theo y khoa
Tài liệu tham khảo:
-
Michael L. Culbert. Freedom from Cancer. 76’Press. Cal.
1976.
-
Earl Mindell. Vitamin Bible. Warner Books
-
http:www.cancer.gov/cancertopics.
-
World without Cancer.
www.VitaminB17.org.
-
http://www.cancertreatmentwatch.org/q/laetrile/commissioner.pdf