Các thuật ngữ các bạn cần hiểu:
- Router
- Metric
- Hop
- Static routes
- Dynamic routes
- Router Information Protocol (RIP)
- Split-horizon
- Open Shortest Path First (OSPF)
- Firewall
- Stateful firewall
- Windows Firewall
- Windows Firewall with Advanced Security
- Usage profile
- Network address translation (NAT)
Những kỹ thuật và khái niệm bạn cần nắm
- Cấu hình các tuyến tĩnh bằng giao diện Router and Remote Access (RRAS) và bằng lệnh Route.exe.
- Cấu hình Router Information Protocol (RIP).
- Cấu hình lọc gói dữ liệu, Windows Firewall và Windows Firewall với bảo mật nâng cao Advanced Security
- Cấu hình tuyến dial-up
- Cấu hình NAT (Network Address Translation)
Router là một thiết bị dùng để quản lý luồng dữ liệu
giữa các đoạn mạng, hoặc các mạng con. Khi có nhiều LAN hoặc nhiều đoạn
mạng được kết nối với nhau, các tuyến được tạo ra để truyền tải dữ liệu
từ LAN này hoặc đoạn mạng này sang LAN khác hoặc đoạn mạng khác. Một
router sẽ định hướng các gói dữ liệu gửi đến và gửi đi dựa trên các
thông tin mà nó nhận biết về trạng thái của các giao diện mạng và danh
sách các đích có thể gửi đến.
Bằng cách lên dự án cho lưu lượng mạng và các nhu cầu
về việc định tuyến, bạn có thể quyết định xem mình có muốn sử dụng
router phần cứng chuyên dụng hay không, ví dụ như router của Cisco hay
một router phần mềm như router có trong Windows Server 2008. Nếu nhu cầu
định tuyến thực sự cần thiết, khi đó bạn cần phải sử dụng các router
phần cứng chuyên dụng. Còn với các mạng nhỏ, giải pháp định tuyến dựa
trên phần mềm cũng khá khả thi. Để trợ giúp cho việc định tuyến,
Microsoft Windows Server 2008 có hỗ trợ dịch vụ định tuyến và truy cập
từ xa - Routing and Remote Access service.
Định tuyến và Router
Khi bạn gửi đi một gói dữ liệu từ một máy tính này
sang một máy tính khác, đầu tiên quá trình sẽ xác định xem gói dữ liệu
được gửi nội bộ đến máy tính khác trên cùng LAN hay đến router để định
tuyến đến LAN đích. Nếu gói dữ liệu được gửi đến một máy tính nằm trong
một LAN khác, nó sẽ được gửi đến router (hoặc gateway). Sau đó router sẽ
xác định tuyến khả thi nhất để chuyển tiếp dữ liệu theo tuyến đó. Gói
dữ liệu sẽ được gửi đến router tiếp theo và quá trình như vậy được lặp
lại cho tới khi nó đến được LAN đích. Ở Lan đích, router đích sẽ chuyển
tiếp gói dữ liệu này đến máy tính đích.
Để xác định xem tuyến nào là tốt nhất, các router sử
dụng thuật toán định tuyến phức tạp, thuật toán này sử dụng một loạt các
hệ số gồm có tốc độ của môi trường truyền dẫn, số đoạn mạng và đoạn
mạng có khả năng chuyển tải lưu lượng ở mức độ tối thiểu. Các router sẽ
chia sẻ trạng thái và các thông tin định tuyến cho nhau để chúng có thể
quản lý lưu lượng và tránh được các kết nối chậm. Thêm vào đó, các
router cũng cung cấp chức năng khác, chẳng hạn như khả năng lọc các tin
và chuyển tiếp chúng đến các địa điểm khác dựa trên các tiêu chuẩn nào
đó. Hầu hết các router đều là các router đa giao thức vì chúng có thể
định tuyến các gói dữ liệu bằng cách sử dụng nhiều giao thức khác nhau.
Metric là một chuẩn đo lường, chẳng hạn như hop count
(số router), được sử dụng bởi các thuật toán định tuyến để xác định
đường đi tối ưu đến một đích nào đó. Một hop là một chuyến đi mà một gói
dữ liệu phải trải qua tính từ một router này đến một router khác hoặc
từ một router này đến một điểm trung gian khác và đến một router khác
trong mạng. Trên các mạng lớn, số hop mà một gói cần để đến được đích
của nó được gọi là hop count. Khi một máy tính truyền thông với một máy tính khác, quá trình truyền thông phải truy cập qua 4 router, khi đó nó có hop count
bằng 4. Nếu không có các hệ số nào được đưa ra, một metric bằng 4 sẽ
được gán. Nếu router được quyền lựa chọn giữa một tuyến có 4 metric và
một tuyến có 6 metric thì nó sẽ chọn tuyến có 4 metric. Rõ ràng, nếu
muốn router chọn tuyến có 6 metric, bạn có thể ghi đè metric cho tuyến
có 4 hop trong bảng định tuyến với giá trị cao hơn.
Để theo dõi các tuyến khác nhau trong mạng, các
router tạo và duy trì các bảng định tuyến. Các router truyền thông với
nhau để duy trì các bảng định tuyến của chúng thông qua một tin cập nhật
về tuyến. Tin cập nhật về tuyến có thể gồm tất cả hoặc một phần của
bảng định tuyến. Bằng cách phân tích các nâng cấp về tuyến từ tất cả các
router khác, các router có thể tạo ra một bức tranh chi tiết về topo
mạng.
Các tuyến động và tuyến tĩnh
Thuật toán định tuyến tĩnh là các thuật toán
khá cứng, là các ánh xạ được thiết lập bởi nhân viên quản trị mạng từ
trước dựa theo bảng định tuyến tĩnh để thực hiện việc định tuyến. Các
ánh xạ này không thay đổi trừ khi quản trị mạng thay đổi chúng. Thuật
toán sử dụng các tuyến tĩnh thường khá đơn giản trong thiết kế và làm
việc tốt trong các môi trường mà ở đó có thể dự đoán trước lưu lượng
mạng và thiết kế mạng khá đơn giản.
Do các hệ thống định tuyến tĩnh không thể phản ứng
với những thay đổi của mạng, nên chúng thường không phù hợp với các mạng
mang tính thay đổi thường xuyên hay các mạng lớn. Hầu hết các thuật
toán định tuyến chiếm ưu thế là các thuật toán định tuyến động,
các thuật toán này có khả năng điều chỉnh theo những điều kiện mạng
thay đổi bằng cách phân tích các tin tức cập nhật về tuyến gửi đến. Nếu
tin tức này chỉ thị rằng có một thay đổi mạng xuất hiện, phần mềm định
tuyến sẽ tính toán lại các tuyến và gửi đi các tin tức mới về tuyến. Các
tin tức này sẽ được truyền đi trong toàn mạng, dựa vào các tin này, các
router khác sẽ khởi chạy lại các thuật toán của chúng và thay đổi các
bảng định tuyến của mình theo các dữ liệu mới nhất.
Lưu ý: Các thuật toán định tuyến động có thể được thực hiện với các tuyến tĩnh ở nơi thích hợp.
Thuật toán Distance-Vector và Link-State
Các router sử dụng các giao thức định tuyến dựa trên vectơ khoảng cách (distance-vector)
để thông báo hoặc quảng bá định kỳ các tuyến trong bảng định tuyến của
chúng, tuy nhiên chúng sẽ chỉ gửi nó đến các router lân cận của mình.
Các thông tin về tuyến đã được trao đổi giữa các router dựa trên
distance-vector không được đồng bộ và không được phúc đáp. Các giao thức
định tuyến distance-vector khá đơn giản và dễ hiểu cũng như dễ cấu
hình. Nhược điểm đối với các router này là nhiều tuyến đến một mạng nào
đó có thể mang lại nhiều mục trong bảng định tuyến, điều đó dẫn đến một
bảng định tuyến lớn. Thêm vào đó, nếu bạn có một bảng định tuyến lớn,
lưu lượng mạng của bạn sẽ tăng vì nó sẽ quảng bá một cách định kỳ bảng
định tuyến đến các router khác, thậm chí sau khi mạng đã hội tụ. Cuối
cùng, sự hội tụ giao thức distance-vector của các mạng lớn có thể mất
nhiều thời gian, đến vài phút.
Thuật toán trạng thái liên kết (Link-state)
được biết đến như thuật toán tìm đường đi ngắn nhất. Thay vì sử dụng
hình thức quảng bá, các router link-state gửi các tin tức được cập nhật
một cách trực tiếp (hoặc bằng cách sử dụng lưu lượng multicast) đến tất
cả các router bên trong mạng. Mặc dù vậy mỗi router chỉ gửi một phần của
bảng định tuyến có mô tả trạng thái các liên kết của riêng nó. Về cơ
bản, thuật toán link-state chỉ gửi đi một số tin tức nhỏ. Vì chúng hội
nhanh hơn nên các thuật toán link-state ít vòng lặp về tuyến hơn so với
các thuật toán distance-vector. Thêm vào đó, các thuật toán link-state
không trao đổi các thông tin về việc định tuyến khi các mạng tương tác
hội tụ. Chúng có các bảng định tuyến nhỏ vì chỉ lưu một tuyến tối ưu cho
mỗi ID mạng.
Routing Information Protocol (RIP)
Giao thức định tuyến phổ biến là RIP (Routing
Information Protocol), là một giao thức distance-vector được thiết kế
cho việc trao đổi các thông tin định tuyến bên trong một mạng có kích
thước nhỏ đến trung bình. Ưu điểm lớn nhất của RIP là nó rất đơn giản
trong cấu hình và triển khai.
RIP sử dụng một metric định tuyến bằng số các hop count
(số router) để đo khoảng cách giữa mạng nguồn và đích. Mỗi hop trong
một đường dẫn từ nguồn tới đích được gán một giá trị hop-count, điển
hình bằng 1. Khi một router nhận được một cập nhật về tuyến có chứa một
entry mạng đích mới hoặc đã được thay đổi thì router đó sẽ cộng thêm 1
vào giá trị metric được chỉ thị trong nâng cấp và nhập vào mạng trong bảng định tuyến. Địa chỉ IP của người gửi sẽ được sử dụng như hop tiếp theo.
Do RIP chỉ sử dụng hop count để xác
định đường đi tốt nhất đến một mạng tương tác nào đó nên nếu RIP tìm
thấy nhiều liên kết đến cùng một mạng từ xa với cùng hop-count thì nó sẽ tự động thực hiện một sự cân bằng tải luân chuyển “round-robin”. RIP có thể thực hiện việc cân bằng tải cho tới 6 liên kết.
Mặc dù vậy, có một vấn đề xảy ra trong việc sử dụng
các hop khi hai liên kết đến một mạng từ xa có băng thông khác nhau. Cho
ví dụ, nếu bạn có một liên kết chuyển mạch 56KB và một liên kết T1
1,544Mbps thì sẽ xảy ra hiện tượng không hiệu quả khi gửi dữ liệu bằng
nhau qua cả hai đường. Để khắc phục nhược điểm này, bạn phải thiết kế
một mạng có các liên kết băng thông bằng nhau hoặc sử dụng một giao thức
định tuyến có thể đưa vào các hệ số băng thông trong bản kê khai.
RIP ngăn chặn các vòng lặp vô tận trong định tuyến
bằng cách thực thi một giới hạn về số các hop được cho phép trong một
đường đi từ nguồn đến đích. Số hop tối đa trong một đường đi là 15. Nếu
một router nhận được một nâng cấp định tuyến có chứa một entry mới hoặc
đã được thay đổi, và nếu quá trình tăng giá trị metric lên 1 làm cho
metric bằng 16 thì đích mạng coi như không thể đến. Rõ ràng, điều này
làm cho RIP không thể co dãn trong các mạng lớn hoặc rất lớn. Lưu ý: Vấn
đề đếm vô tận là lý do tại sao số hop (hop count) tối đa của RIP cho
một mạng IP được thiết lập là 15. Các giá trị hop count tối đa lớn hơn sẽ làm cho thời gian hội tụ lâu hơn khi đó hiện tượng đếm vô tận xuất hiện.
Ban đầu, bảng định tuyến cho mỗi router chỉ gồm các
mạng được kết nối vật lý với nó. Một RIP router sẽ định kỳ (30s) gửi đi
các thông báo có chứa các entry bảng định tuyến của nó để các router
khác có thể cập nhật các bảng định tuyến của chúng. Phiên bản 1 của RIP
sử dụng các gói dữ liệu quảng bá địa chỉ IP cho các thông báo của nó,
phiên bản 2 sử dụng các gói dữ liệu multicast hoặc broadcast. Tất cả các
tin nhắn RIP đều được gửi trên cổng UDP 520.
Các RIP router cũng có thể truyền thông các thông tin định tuyến thông qua các nâng cấp được kích hoạt (trigger),
các nâng cấp được kích hoạt khi topo mạng thay đổi. Khác với các thông
báo được lịch trình, các nâng cấp được kích hoạt sẽ được gửi đi ngay lập
tức thay cho việc phải đợi thông báo định kỳ tiếp theo. Cho ví dụ, khi
một router phát hiện một lỗi liên kết hoặc router, nó sẽ nâng cấp bảng
định tuyến của chính mình và gửi các tuyến đã được cập nhật. Các router
nhận được nâng cấp đã được kích hoạt này sẽ thay đổi bảng định tuyến của
nó và phổ biến thay đổi này đến các router khác.
Bạn có thể cấu hình mỗi RIP router với một danh sách
các router (bởi địa chỉ IP) chấp nhận các thông báo RIP. Bằng cách cấu
hình danh sách các RIP router ngang hàng, các tuyên bố RIP từ các RIP
router không được thẩm định sẽ bị loại bỏ. Thêm vào đó, để ngăn chặn lưu
lượng RIP nhận được bởi bất cứ nút nào ngoại trừ các RIP router lân
cận, bạn có thể thiết lập một số router để sử dụng các thông báo RIP một
đường đến các RIP router lân cận.
Vì RIP là một giao thức distance-vector, nên
khi các mạng tương tác mở rộng về kích thước, các thông báo định kỳ bởi
các RIP router có thể gây ra hiện tượng quá tải lưu lượng. Một nhược
điểm của RIP là thời gian hội tụ khá cao. Khi topo mạng thay đổi, nó cần
đến vài phút trước khi các RIP router tự cấu hình lại bản thân chúng về
topo mạng mới. Khi mạng tự cấu hình lại, các vòng lặp định tuyến có thể
gây ra hiện tượng mất dữ liệu. Để khắc phục hiện tượng này, RIP có bổ
sung thêm split-horizon.
Để khắc phục một số thiếu sót của RIP, RIP Version 2 (RIP II) đã được ra đời. RIP v2 cung cấp các tính năng dưới đây:
- Bạn có thể sử dụng một mật khẩu cho việc thẩm định bằng cách chỉ
định một khóa được sử dụng để thẩm định các thông tin định tuyến cho
router. Sự thẩm định mật khẩu được định nghĩa trong RFC 1723, tuy nhiên
lại có các cơ chế thẩm định mới hơn, chẳng hạn như Message Digest 5
(MD5).
- RIP v2 gồm có subnet mask trong thông tin định tuyến và hỗ trợ
các subnet có độ dài thay đổi (variable-length). Subnet mask có độ dài
thay đổi có thể được liên kết với các đích, cho phép tăng số lượng host
hoặc subnet có thể trong mạng.
- Bảng định tuyến có thể chứa các thông tin về địa chỉ IP của
router cần thiết để đến được đích. Điều này giúp tránh được tình trạng
các gói dữ liệu bị chuyển tiếp qua các router mở rộng trên hệ thống.
- Các gói Multicast chỉ phát đến các RIP v2 router và được sử
dụng để giảm tải trên các host không lắng nghe các gói RIP v2. Địa chỉ
IP multicast cho các gói RIP v2 là 224.0.0.9. Lưu ý: các nút Silent RIP
cũng phải lắng nghe lưu lượng multicast được gửi đến địa chỉ 224.0.0.9.
Nếu bạn đang sử dụng Silent RIP, hãy thẩm định rằng các nút Silent RIP
của mình có thể lắng nghe các thông báo multicast RIP v2 trước khi triển
khai multicast RIP v2.
Lưu ý:
RIPv2
hỗ trợ multicast cho việc nâng cấp các bảng định tuyến. RIPv1 không hỗ
trợ tính năng này. RIPv1 router không thể truyền thông với RIPv2 router
có sử dụng multicast để cập nhật.
Open Shortest Path First (OSPF)
Với các mạng nhỏ và trung bình, việc phân phối dữ
liệu trong toàn mạng và duy trì bảng định tuyến tại mỗi router không trở
thành vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên với các mạng có kích thước lớn, có
hàng trăm router, bảng định tuyến có thể khá lớn (vài MB) thì việc tính
toán các tuyến cần đến khá nhiều thời gian vì một số router có thể gặp
sự cố hoặc không.
Một số giao thức, chẳng hạn như Open Shortest Path First (OSPF),
cho phép các vùng (nhóm các mạng kế nhau) được nhóm lại với nhau thành
một hệ thống tự trị (AS). Các khu vực tạo nên các vùng tự trị này thường
tương ứng với một miền quản trị, chẳng hạn như một phòng, tòa nhà hoặc
một vị trí địa lý nào đó. Một AS có thể là một mạng hoặc có thể là một
nhóm các mạng, được sở hữu và được quản trị bởi một quản trị mạng hoặc
một nhóm quản trị mạng nói chung.
OSPF là một giao thức định tuyến link-state
được sử dụng trong các mạng có kích thước lớn và trung bình để tính
toán các entry của bảng định tuyến bằng cách xây dựng một cây đường đi
ngắn nhất. OSPF được thiết kế cho các mạng tương tác lớn (được biệt các
mạng có hơn 15 router hop). Nhược điểm của OSPF là nó khá phức tạp trong
thiết lập và yêu cầu cần phải có kế hoạch cụ thể.
Lưu ý:
Thành phần giao thức OSPF trong Routing and Remote Access đã được remove khỏi Windows Server 2008.
Routing and Remote Access Service (RRAS)
Với RRAS, một máy tính đang chạy hệ điều
hành Windows Server 2008 có thể hoạt động như một router mạng, định
tuyến các gói dữ liệu IP giữa các mạng. Dịch vụ router này cho phép các
LAN và WAN được kết nối chéo với nhau một cách dễ dàng. Kỹ thuật định
tuyến được xây dựng bên trong hệ điều hành, cung cấp cho các doanh
nghiệp nhở và lớn một cách thức an toàn và hiệu quả về giá thành trong
việc kết nối chéo các mạng của họ.
Bạn có thể cài đặt dịch vụ Routing and Remote Access
bằng cách sử dụng Add Roles Wizard. Để cài đặt dịch vụ Routing and
Remote Access, thực hiện theo các bước dưới đây:
- Trong cửa sổ chính của Server Manager, dưới Roles Summary, kích Add roles. Hoặc nếu bạn sử dụng cửa sổ Initial Configuration Tasks, bên dưới Customize This Server, kích Add roles.
- Trong Add Roles Wizard, kích Next.
- Trong danh sách các server role, chọn Network Policy and Access Services. Kích Next hai lần.
- Trong danh sách role service, chọn Routing and Remote Access Services để chọn tất cả role service. Bạn cũng có thể chọn các role máy chủ riêng biệt. Kích Next.
- Tiến hành qua các bước trong Add Roles Wizard để hoàn tất quá trình cài đặt.
Sau khi hoàn tất quá trình cài đặt, dịch vụ Routing
and Remote Access được cài đặt trong trạng thái bị vô hiệu hóa. Để kích
hoạt dịch vụ Routing and Remote Access, bạn hãy thực hiện theo các bước
sau:
- Mở Routing and Remote Access.
- Mặc định, máy tính nội bộ được liệt kê như một máy chủ.
- Để bổ sung thêm máy chủ khác, trong cây giao diện, kích chuột phải vào Server Status, sau đó kích Add Server.
- Trong hộp thoại Add Server, kích tùy chọn thích hợp, sau đó kích OK.
- Trong cây giao diện, kích phải vào máy chủ mà bạn muốn kích hoạt, sau đó kích Configure and Enable Routing and Remote Access. Kích Next.
- Kích Custom Configuration và kích Next.
- Để kích hoạt việc định tuyến LAN, chọn LAN routing và kích Next.
- Kích nút Finish
Để kích hoạt việc định tuyến LAN và WAN sau khi dịch vụ Routing and Remote Access đã được kích hoạt:
- Mở Routing and Remote Access.
- Kích phải vào tên máy chủ mà bạn muốn kích hoạt việc định tuyến, sau đó kích Properties.
- Trong tab General, chọn hộp chọn IPv4 Router và IPv6 Router thích hợp, và chọn Local Area Network (LAN) Routing Only hay LAN and Demand-Dial Routing.
- Kích OK.
Tạo các tuyến tĩnh
Trong một số trường hợp, bạn phải cần thêm một tuyến
tĩnh cho router Windows Server 2008 của mình. Điều này hẳn là có cả ưu
điểm và nhược điểm. Việc tạo một tuyến tĩnh là hoàn toàn đơn giản; mặc
dù vậy, các tuyến mà bạn cấu hình không được chia sẻ giữa các router.
Các tuyến tĩnh chỉ định địa chỉ mạng và subnet mask để thông tin cho
router về cách đi đến một đích nào đó. Router sử dụng các thông tin đó
để xác định gateway nào sẽ chuyển tiếp dữ liệu để gói dữ liệu có thể đến
được host đích của nó.
Các tuyến tĩnh có thể được cấu hình theo một trong hai cách sau:
- Sử dụng lệnh route.
- Sử dụng giao diện quản lý RRAS.
Sử dụng lệnh Route
Lệnh route được sử dụng để xem và thay đổi bảng định
tuyến mạng cho một mạng IP. Lệnh route print sẽ hiển thị danh sách các
tuyến hiện hành mà host nắm được (xem hình 1)
Hình 1: Kết quả của lệnh Route Print
Các tuyến được thêm vào bảng định tuyến sẽ không bền
trừ khi tiếp lệnh -p được chỉ định. Các tuyến không bền chỉ kéo dài cho
tới khi máy tính được khởi động lại hoặc tới khi giao diện mất phản ứng.
Giao diện có thể được làm mất tích cực khi giao diện plug-and-play được
rút ra (chẳng hạn như các laptop và các máy tính cắm nóng), khi dây
được remove khỏi media card (nếu adapter hỗ trợ nhận dạng lỗi media),
hoặc khi giao diện bị hủy kết nối ra khỏi adapter trong thư mục Network
and Dial-up Connections.
Cách dùng lệnh route:
ROUTE [-f] [-p] [command [destination]] [MASK netmask] [gateway]
-> [METRIC metric]
- -f— Xóa bảng định tuyến cho tất cả các entry của gateway. Nếu lệnh
này được sử dụng kết hợp với một trong các lệnh khác thì các bảng định
tuyến sẽ bị xóa trước khi lệnh này được chạy.
- -p—Khi được sử dụng với lệnh add, tạo một tuyến bền trong các
quá trình khởi động của hệ thống. Mặc định, các tuyến không được duy trì
khi hệ thống khởi động lại. Khi được sử dụng với lệnh print, hiển thị
danh sách các tuyến bền đã được đăng ký. Bỏ qua tất cả các lệnh khác,
lệnh này luôn ảnh hưởng tới các tuyến bền.
- Destination—Chỉ định cho mạng hoặc host rằng các gói nào đang được gửi đến.
- MASK netmask—Chỉ định subnet mask để kết hợp với entry
tuyến này. Nếu giá trị netmask không được chỉ định thì nó sẽ nhận giá
trị mặc định là 255.255.255.255.
- gateway—Chỉ định gateway hoặc router.
- METRIC metric—Gán cho metric một số nguyên (từ 1 đến 9.999) được sử dụng trong tính toán các tuyến đắt nhất, tin cậy nhất và nhanh nhất.
Các lệnh có thể sử dụng trong cú pháp có trước là PRINT, ADD, DELETE và CHANGE:
- PRINT—Hiển thị một tuyến
- ADD—Thêm một tuyến
- DELETE—Xóa một tuyến
- CHANGE—Thay đổi một tuyến đang tồn tại
Lưu ý:
Các tuyến bền được lưu trong location Registry dưới đây:
HKEY_LOCAL_MACHINE\SYSTEM\CurrentControlSet\Services\Tcpip\Parameters\PersistentRoutes
Cho ví dụ, để tạo một tuyến tĩnh, bạn có thể đánh
route ADD 132.133.200.0 MASK 255.255.255.0 63.197.142.1 METRIC 2
Sau khi lệnh này được thực thi, bất cứ gói nào được
gửi đến địa chỉ mạng 132.133.200.0 hoặc host có địa chỉ IP nằm trong dải
132.133.200.1 đến 132.133.200.254 sẽ được chuyển tiếp đến router có địa
chỉ host nội bộ là 63.197.142.1. Nếu nhiều entry chỉ định các địa chỉ
đích này thì tuyến này sẽ có một metric 2 hop.
Sử dụng Routing and Remote Access
Để thêm một tuyến tĩnh vào máy tính Windows Server
2008, bạn cần sử dụng chương trình Routing and Remote Access trong
Administrative Tools hoặc sử dụng MMC snap-in thích hợp. Tiếp đến, kích
chuột phải vào Static Routes bên dưới IPv4 hoặc IPv6 và chọn New Static
Route for IP Networks (xem trong hình 2).
Hình 2: Sử dụng giao diện Routing and Remote Access để tạo một tuyến tĩnh
Với một tuyến IP tĩnh, trong Interface, Destination,
Network Mask, Gateway, và Metric, nhập vào giao diện, đích, mask,
gateway và metric. Nếu đây là một giao diện demand-dial, Gateway sẽ
không được cung cấp. Khi đó bạn có thể chọn hộp chọn Use This Route to Initiate Demand-Dial Connections để khởi tạo kết nối demand-dial để truyền thông với tuyến.
Với các địa chỉ IP tĩnh, đích đến sẽ cung cấp một
không gian để bạn đánh vào đích đến của tuyến. Đích có thể là một địa
chỉ host, địa chỉ subnet, địa chỉ mạng hoặc đích của một tuyến mặc định
nào đó (0.0.0.0). Subnet mask cung cấp không gian để bạn có thể nhập vào
network mask của tuyến tĩnh. Số network mask được sử dụng kết hợp với
đích để phân biệt thời điểm khi nào tuyến được sử dụng.
Mask 255.255.255.255 có nghĩa rằng chỉ một tương ứng
chính xác với số đích có thể sử dụng cho tuyến này. Mask bằng 0.0.0.0 có
nghĩa bất kỳ đích nào cũng có thể sử dụng cho tuyến. Gateway cung cấp
một không gian để bạn đánh vào địa chỉ IP chuyển tiếp cho tuyến. Với các
giao diện LAN, địa chỉ gateway phải được cấu hình và phải là một địa
chỉ IP có thể đến được cho đoạn mạng của giao diện đã chọn. Với các giao
diện demand-dial, địa chỉ gateway không được cấu hình hoặc được sử
dụng. Metric cung cấp một không gian để đánh vào số hop của tuyến để đến
được đích. Metric thường được sử dụng để chỉ thị số router (hop) đến
đích. Khi quyết định giữa nhiều tuyến đến cùng một đích, tuyến có metric
thấp nhất sẽ được chọn là tuyến tốt nhất.
Định tuyến Demand-Dial
Hai kiểu kết nối Demand-Dial có thể được tạo cho việc định tuyến:
- Kết nối On-demand
- Kết nối bền (Persistent)
Với các kết nối demand-dial, một kết nối với router
từ xa được thiết lập chỉ khi cần thiết. Kết nối được thiết lập để định
tuyến các thông tin và được kết thúc khi liên kết không còn được sử
dụng. Ưu điểm của kết nối này là tiết kiệm về mặt chi phí do không sử
dụng các liên kết chuyên dụng.
Với các kết nối bền, liên kết không cần bị kết thúc.
Thậm chí khi nó không trong sử dụng mà vẫn duy trì mở. Các kết nối giữa
các router mạng có thể là các kết one-way hoặc two-way, điều đó có nghĩa
rằng một kết nối có thể được khởi tạo chỉ bởi một router hoặc cả hai
router. Với các kết nối one-way, một router được chỉ định như một router
trả lời và router còn lại được chỉ định là router gọi, router gọi có
trách nhiệm khởi tạo các kết nối.
Đinh tuyến One-Way Demand-Dial
Các kết nối Demand-dial có thể được tạo ra bên trong
Routing and Remote Access snap-in. Cách bạn cấu hình kết nối phụ thuộc
vào vấn đề bạn đang cấu hình kết nối one-way hay two-way. Để tạo một
giao diện demand-dial trên router gọi, bạn có thể thực hiện theo các
bước sau:
- Kích phải vào Network Interfaces bên trong giao diện điều khiển RRAS và kích New Demand-Dial Interface. Thao tác này sẽ khởi chạy Demand-Dial Interface Wizard. Kích Next.
- Đánh vào tên cho giao diện và kích Next.
- Chọn kiểu kết nối, kích Next. Chọn thiết bị sẽ được sử dụng để tạo kết nối. Kích Next.
- Đánh vào số phone của máy chủ từ xa mà bạn sẽ quay số đến. Kích Next.
- Từ cửa sổ Protocols and Security, chọn các tùy chọn cần thiết:
- Route IP Packets on This Interface
- Add a User Account So a Remote User Can Dial In
- Send a Plain-Text Password If That Is the Only Way to Connect
- Use Scripting to Complete the Connection with the Remote Router
- Cấu hình một tuyến tĩnh đến mạng từ xa, kích Next.
- Từ cửa sổ Dial Out Credentials, chỉ định username và password mà dial-out router sẽ sử dụng để kết nối đến router từ xa. Kích Next.
- Kích Finish.
Lưu ý: Trước
khi tạo một giao diện demand-dial mới, bạn cần bảo đảm rằng router đã
được kích hoạt cho LAN và việc định tuyến demand-dial thay cho chỉ việc
định tuyến LAN. Bạn có thể kích hoạt tùy chọn này bằng cách kích phải
vào máy chủ RRAS và chọn Properties. Từ tab General, chọn LAN and
Demand-Dial Routing.
Router trả lời cũng cần được cấu hình cho kết nối
one-way demand-dial. Bạn cũng cần phải tạo một tài khoản người dùng trên
router trả lời với các điều khoản dial-in và các điều khoản chính sách
thích hợp. Tài khoản người dùng sẽ được sử dụng để thẩm định các kết nối
từ các router gọi. Một tuyến tính sau đó sẽ được cấu hình trên tài
khoản người dùng. Thêm vào đó cũng cần bảo đảm rằng khi tạo tài khoản
người dùng, tùy chọn Password Never Expires phải được chọn và tùy chọn
User Must Change Password at Next Logon thì không.
Lưu ý:
Khi cấu hình router gọi, bạn cần bảo đảm rằng các
tiêu chuẩn dial-out phải tương ứng với tên tài khoản người dùng được cấu
hình trên router trả lời.
Định tuyến Two-Way Demand-Dial
Việc tạo kết nối two-way demand-dial cũng tương tự
như việc cấu hình kết nối one-way, tuy nhiên có một số điểm khác. Giao
diện demand-dial được tạo trên mỗi máy chủ RRAS bởi quá trình đã phác
thảo trước để tạo kết nối one-way demand-dial. Bạn phải gán tên cho giao
diện và chỉ định số điện thoại để quay số, thiết bị được sử dụng, giao
thức và các thiết lập bảo mật, các tiêu chuẩn dial-out. Bên cạnh đó bạn
cũng phải cấu hình tài khoản người dùng, với các điều khoản truy cập từ
xa tương ứng, trên mỗi máy chủ RRAS. Cần lưu ý rằng tên tài khoản người
dùng phải giống hệt tên được gán cho giao diện demand-dial của router
gọi. Cuối cùng, bạn phải cấu hình một tuyến tĩnh bằng giao diện
demand-dial.
Lưu ý:
Cần nhớ thời điểm khi bạn cấu hình two-way demand
dial thì các tên tài khoản người dùng trên router trả lời phải giống với
tên giao diện demand-dial trên các router gọi.
Cấu hình việc định tuyến Demand-Dial
Khi một kết nối demand-dial được tạo, bạn có thể cấu
hình nó sâu hơn bằng cách sử dụng cửa sổ Properties cho kết nối. Từ tab
Options, cấu hình kiểu kết nối: demand-dial hoặc bền. Cũng có thể thiết
lập chính sách quay số bằng cách chỉ định số lần mà router gọi nên quay
lại nếu không có trả lời và bằng cách chỉ định thời gian giữa những lần
quay số lại.
Tab Security cho phép bạn cấu hình các tùy chọn bảo
mật cho kết nối dial-out. Cấu hình này gồm có: các mật khẩu không được
an toàn có được phép hay không? Kết nối có yêu cầu mã hóa dữ liệu và có
kịch bản sẽ được chạy sau quay số không.
Bạn có thể tạo một vài cấu hình khác đối với giao
diện demand-dial. Việc lọc Demand-dial cho phép bạn kiểm soát kiểu lưu
lượng IP có thể khởi tạo kết nối. Bạn có thể cho phép hoặc từ chối kết
nối dựa trên kiểu lưu lượng IP. Cho ví dụ, bạn có thể chỉ muốn lưu lượng
web và FTP khởi tạo kết nối Demand-dial chẳng hạn. Giờ Dial-out chỉ
định số lần trong ngày một kết nối có thể được khởi tạo. Điều này cho
phép một quản trị viên có thể kiểm soát được thời điểm kết nối
demand-dial được sử dụng.
Quản lý RIP
Sau khi các giao diện demand-dial hay LAN được tạo,
việc cấu hình các giao diện giao thức định tuyến thích hợp là bước cuối
cùng trong quá trình cấu hình máy chủ RRAS với tư cách là một router
mạng. Bạn phải thêm vào giao thức định tuyến bằng cách kích phải vào nút
General và chọn New Routing Protocol. Cửa sổ xuất hiện sẽ liệt kê các
giao thức bạn có thể chọn. Chọn RIPv2 và kích OK.
Sau khi giao thức định tuyến được thêm vào, bạn phải
thêm vào các giao diện. Để thực hiện điều đó, kích phải vào giao thức
định tuyến tương ứng và chọn New Interface. Sau khi bạn chọn một giao
diện và kích OK, cửa sổ Properties cho giao diện sẽ xuất hiện, cho phép
bạn cấu hình nó.
Mỗi giao diện RIP đều có một cửa sổ thuộc tính riêng,
từ cửa sổ này bạn có thể cấu hình một số tùy chọn. Bên trong giao diện
điều khiển RRAS, mở phần IP Routing, RIP; sau đó kích phải vào một trong
các giao diện có sẵn và kích Properties.
Tab General cho phép bạn cấu hình chế độ hoạt động.
Bạn có thể chọn Autostatic Update Mode hoặc Periodic Update Mode. Với
nâng cấp autostatic, các thông báo RIP sẽ được gửi đi khi các router
khác yêu cầu nâng cấp. Bất kỳ router nào đã biết trong khi nâng cấp
autostatic sẽ được đánh dấu là router tĩnh và được duy trì lại trong
bảng định tuyến cho tới khi quản trị viên xóa chúng. Trong chế độ nâng
cấp định kỳ (periodic), các thông báo sẽ được gửi đi một cách định kỳ.
(Khoảng thời gian tuyên bố định kỳ sẽ xác định tần suất như thế nào).
Các tuyến này sẽ được xóa tự động khi router ngừng hoặc khởi động lại.
Giao thức gói dữ liệu gửi đến và gửi đi cho phép bạn cấu hình kiểu các
gói, chẳng hạn như RIPv1 hoặc RIPv2, router gửi và chấp nhận.
Các tùy chọn Activate Authentication và Password cho
phép ban duy trì một mức bảo mật bổ sung. Nếu sự thẩm định được kích
hoạt, tất cả các gói dữ liệu gửi đến và gửi đi phải gồm mật khẩu được
chỉ định trong trường mật khẩu. Khi sử dụng cơ chế thẩm định, hãy bảo
đảm rằng tất cả các router lân cận phải được cấu hình bằng một mật khẩu
giống nhau.
Từ tab Security, một quản trị viên có thể cấu hình bộ
lọc tuyến RIP. Router có thể được cấu hình để gửi và chấp nhận tất cả
các tuyến, gửi và chấp nhận chỉ các tuyến từ một dải nào đó, hoặc chấp
nhận và gửi tất cả các tuyến ngoại trừ các tuyến được chỉ định.
Tab Neighbors được sử dụng để cấu hình cách router
tương tác với các router RIP khác như thế nào. Tab Advanced có một vài
tùy chọn cấu hình:
- Periodic Announcement Interval: Điều khiển khoảng thời gian tạo ra các thông báo nâng cấp.
- Time Before Route Expires: Xác định một router được duy trì bao lâu trong bảng định tuyến trước khi hết hạn.
- Time Before Route Is Removed: Xác định một router đã hết hạn được duy trì lại bao lâu trong bảng định tuyến trước khi bị xóa đi.
- Enable Split Horizon Processing: Bảo đảm rằng các vòng lặp định tuyến không xuất hiện trước khi router biết từ một router không quảng bá lại đến mạng đó.
- Enable Triggered Updates: Điều khiển xem những thay đổi trong bảng định tuyến có được gửi ra ngay lập tức hay không.
- Send Clean-Up Updates when Stopped: Điều khiển
xem router có gửi một thông báo khi nó bị stop để thông báo cho các
router khác rằng các tuyến mà nó phụ trách không tồn tại.
- Process Host Routes in Received Announcements: Điều khiển xem các tuyến chính đã nhận trong các thông báo RIP được chấp nhận hay từ chối.
- Include Host Routes in Send Announcements: Điều khiển xem các tuyến chính có được gộp vào trong thông báo RIP hay không.
- Process Default Routes in Received Announcements: Điều khiển xem các tuyến mặc định đã nhận trong thông báo RIP được chấp nhận hay từ chối.
- Process Default Routes in Send Announcements: Điều khiển xem các tuyến mặc định có được nhóm vòa các thông báo RIP hay không.
- Disable Subnet Summarization: Tùy chọn này có
sẵn chỉ cho RIPv2. Nó điều khiển xem các mạng con có được thông báo đến
các router trên các mạng con khác hay không.
Lưu ý:
Khi một vòng lặp định tuyến xuất hiện, các gói dữ
liệu sẽ được đẩy tới và lui giữa các router. Khi quá trình split-horizon
được kích hoạt, các tuyến không được thông báo quay trở lại đến router
mà chúng nhận tin từ đó. Cho ví dụ, nếu router B nhận các tuyến được
thông báo từ router A thì router B sẽ không thông báo các tuyến này cho
router A nữa. Khi quá trình Split Horizon with Poison Reverse được kích
hoạt, các tuyến được thông báo trở lại router mà chúng nhận tin từ đó
với một số hop count vô tận.
Bộ lọc dữ liệu
Việc lọc gói cho phép các quản trị viên có thể chỉ
định kiểu lưu lượng gửi đến và gửi đi được phép đi qua router Windows
Server 2008. Khi cấu hình các bộ lọc dữ liệu, bạn có thể cho phép tất cả
lưu lượng ngoại trừ lưu lượng bị chặn bởi bộ lọc. Hoặc bạn có thể từ
chối tất cả lưu lượng ngoại trừ lưu lượng được cho phép bởi bọ lọc.
Để bổ sung thêm bộ lọc dữ liệu, bạn thực hiện theo các bước dưới đây:
- Mở Routing and Remote Access.
- Trong cây truy cập, kích General bên dưới Routing and Remote Access/Server Name/[IPv4 hoặc IPv6].
- Trong panel chi tiết, kích phải vào giao diện mà trên đó bạn muốn thêm vào một bộ lọc, sau đó kích Properties.
- Trên tab General, kích Inbound Filters hoặc Outbound Filters.
- Trong hộp thoại Inbound Filters hoặc Outbound Filters, kích New.
- Trong hộp thoại Add IP Filter, đánh các thiết lập cho bộ lọc, sau đó kích OK.
- Trong Filter action, chọn Filter action thích hợp và kích OK.
Sau khi một bộ lọc được tạo, bạn có thể chỉnh sửa nó bất cứ thời điểm nào bằng cách chọn bộ lọc từ danh sách và kích Edit.