Trong vòng 25 năm, có một cái tên từng đồng nghĩa với đồ họa máy tính. Trải qua những thử thách và khó khăn, họ đã chiến đấu chống lại các công ty lâu đời khác cũng như những công ty mới nổi nóng hổi. Thương hiệu sản phẩm thành công nhất của họ vẫn được sử dụng cho đến ngày nay, bên cạnh nhiều công nghệ mà họ đã đi tiên phong trong nhiều năm.
Tất nhiên, chúng ta đang đề cập đến ATI Technologies. Đây là câu chuyện hấp dẫn về sự ra đời, nổi lên và kết cục sau cùng của gã khổng lồ đồ họa Canada này.
Sau thời gian đầu làm việc cho một bộ phận phụ của Motorola vào đầu thập niên 1980, ông đã thành lập một công ty nhỏ tên là Comway chuyên thiết kế các card mở rộng cơ bản (còn gọi là bảng mạch mở rộng) và card đồ họa (bảng mạch đồ họa) cho các máy PC của IBM, với quy trình sản xuất được thực hiện tại Hồng Kông.
Công việc kinh doanh này đã giúp ông tiếp xúc với Benny Lau, một kỹ sư thiết kế mạch điện và cũng là người bạn cùng tốt nghiệp trường UoT, cùng Kwok Yen Ho, người đã có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành điện tử. Với sự thúc giục của Lee Lau, họ đã cùng ông biến Comway thành một dự án kinh doanh mới. Với khoảng 230,000 đô la tiền vay ngân hàng và tiền đầu tư (một phần từ ông chú của Lee, Francis Lau), nhóm đã chính thức thành lập Array Technology Incorporated vào tháng 8 năm 1985.
Sản phẩm đầu tiên của ATI, card Hercules, ATI CW16800-A (Graphics Solution). Gate array là các khối màu đen hình chữ nhật trên bảng mạch. Ảnh: VGA Museum.
Nhiệm vụ của công ty mới này là thiết kế độc quyền các chipset tăng tốc video hoàn toàn dựa trên những gate array (do đó có tên của công ty) và bán chúng cho các OEM để sử dụng trong PC của IBM, trong các bản sao và card mở rộng của chính họ. Do áp lực pháp lý từ một doanh nghiệp có tên tương tự ở Hoa Kỳ, họ đã lấy tên ATI Technologies chỉ trong vòng vài tháng kể từ khi thành lập công ty.
Tất nhiên, chúng ta đang đề cập đến ATI Technologies. Đây là câu chuyện hấp dẫn về sự ra đời, nổi lên và kết cục sau cùng của gã khổng lồ đồ họa Canada này.
Một ngôi sao mới ra đời
Cũng như hầu hết các công ty công nghệ vĩ đại, nhưng đã quá vãng khác, câu chuyện này bắt đầu vào giữa những năm 1980. Lee Lau, người đã di cư đến Canada khi còn nhỏ, đã tốt nghiệp bằng Thạc sĩ về kỹ thuật điện tử tại Đại học Toronto (UoT).Sau thời gian đầu làm việc cho một bộ phận phụ của Motorola vào đầu thập niên 1980, ông đã thành lập một công ty nhỏ tên là Comway chuyên thiết kế các card mở rộng cơ bản (còn gọi là bảng mạch mở rộng) và card đồ họa (bảng mạch đồ họa) cho các máy PC của IBM, với quy trình sản xuất được thực hiện tại Hồng Kông.
Công việc kinh doanh này đã giúp ông tiếp xúc với Benny Lau, một kỹ sư thiết kế mạch điện và cũng là người bạn cùng tốt nghiệp trường UoT, cùng Kwok Yen Ho, người đã có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành điện tử. Với sự thúc giục của Lee Lau, họ đã cùng ông biến Comway thành một dự án kinh doanh mới. Với khoảng 230,000 đô la tiền vay ngân hàng và tiền đầu tư (một phần từ ông chú của Lee, Francis Lau), nhóm đã chính thức thành lập Array Technology Incorporated vào tháng 8 năm 1985.
Sản phẩm đầu tiên của ATI, card Hercules, ATI CW16800-A (Graphics Solution). Gate array là các khối màu đen hình chữ nhật trên bảng mạch. Ảnh: VGA Museum.
Nhiệm vụ của công ty mới này là thiết kế độc quyền các chipset tăng tốc video hoàn toàn dựa trên những gate array (do đó có tên của công ty) và bán chúng cho các OEM để sử dụng trong PC của IBM, trong các bản sao và card mở rộng của chính họ. Do áp lực pháp lý từ một doanh nghiệp có tên tương tự ở Hoa Kỳ, họ đã lấy tên ATI Technologies chỉ trong vòng vài tháng kể từ khi thành lập công ty.
Trong vòng chưa đầy 12 tháng, ATI đã có sản phẩm đầu tiên trên thị trường. Giải pháp Đồ họa (Graphics Solution) là một card giá 300 đô la có thể vừa với bất kỳ khe cắm ISA 8-bit nào và hỗ trợ nhiều chế độ đồ họa – nó có thể dễ dàng chuyển đổi giữa các chuẩn đầu ra màn hình MDA, CGA, Hercules và Plantronics bằng phần mềm đi kèm.
Với một khoản chi phí bổ sung nhỏ, khách hàng cũng có thể mua các phiên bản bao gồm các cổng song song và/hoặc nối tiếp để kết nối các thiết bị ngoại vi khác với PC. Điều duy nhất nó không cung cấp là chế độ EGA của IBM, nhưng với mức giá đó, không ai thực sự có thể phàn nàn.
Card ATI 18800-1 (EGA/VGA Wonder). Ảnh: VGA Museum.
Là một tân binh trong ngành, doanh số bán hàng có lẽ còn khiêm tốn, nhưng với sự đầu tư liên tục và năng lực kỹ thuật, tập đoàn đã tiếp tục cải tiến chip của họ. Khi thập niên 1980 gần kết thúc, ATI đã chứng minh rằng đó không chỉ là một hiện tượng thoáng qua - EGA Wonder (1987) giá 400 đô la và VGA Wonder (1988, hình trên) giá 500 đô la đã thể hiện những cải tiến đáng kể so với những người tiền nhiệm của chúng và có giá cả cạnh tranh.
Trong vài năm, nhiều phiên bản của các sản phẩm này đã được phát hành. Một số là tùy chọn cực kỳ phải chăng với các tính năng tối thiểu, trong khi một số khác có cổng chuyên dụng dành cho con chuột hoặc chip âm thanh trên bảng mạch. Tuy nhiên, đây là một thị trường cạnh tranh cao và ATI không phải là công ty duy nhất sản xuất những card như vậy.
Điều cần thiết là một thứ gì đó đặc biệt, một thứ gì đó sẽ khiến họ nổi bật giữa đám đông.
Bo mạch Mach bước vào sàn đấu
Card đồ họa của những năm 80 khác rất nhiều so với những gì chúng ta biết ngày nay, bất chấp chúng có bất kỳ điểm tương đồng bề ngoài nào. Chức năng chính của chúng là chuyển đổi thông tin hiển thị do máy tính tạo ra thành tín hiệu điện cho màn hình – không có gì khác. Tất cả các tính toán liên quan đến việc thực sự sản sinh ra hình ảnh đồ họa và các màu sắc được hiển thị hoàn toàn do CPU xử lý.Tuy nhiên, thời điểm đã chín muồi để có một bộ đồng-xử lý chuyên dụng đảm nhận phần nào các nhiệm vụ này. Một trong những sản phẩm đầu tiên trên thị trường đến từ IBM, dưới dạng bo mạch màn hình 8514. Mặc dù ít tốn kém hơn so với card đồ họa cho máy trạm, nhưng nó vẫn khá đắt khi có giá hơn 1,200 đô la, đương nhiên là sẽ khiến hàng loạt công ty sản xuất các bản sao và biến thể của riêng họ.
Bo mạch Graphics Vantage của ATI, có hai chipset trên một card duy nhất. Chipset ATI 28800 và ATI 38800, có thể hiển thị độ phân giải 1024x768 với 256 màu. Ảnh: Retronn.de.
Trong trường hợp của ATI, con chip này có hình dạng của chip ATI 38800 – hay còn được gọi là Mach8. Việc triển khai bộ xử lý này trong một máy PC đã dẫn đến việc một số phép tính đồ họa 2D nhất định (ví dụ: vẽ đường thẳng, tô màu vùng, xóa bit) được ủy thác từ CPU. Tuy nhiên, một nhược điểm lớn của thiết kế này là thiếu khả năng VGA. Điều này buộc phải có một card riêng biệt để xử lý tác vụ này hoặc đòi hỏi phải có thêm một chipset trên thẻ.
ATI Graphics Ultra và Graphics Vantage, được phát hành vào năm 1991, là hai model như vậy đã đi theo con đường thứ hai, nhưng chúng khá đắt so với những gì chúng cung cấp. Ví dụ: model Ultra cao cấp nhất, được trang bị 1MB DRAM cổng kép (được bán trên thị trường với biệt danh VRAM), có giá 900 đô la, mặc dù giá đã nhanh chóng giảm mạnh sau khi ATI hé lộ bộ xử lý đồ họa tiếp theo của mình.
Với đầy đủ các cải tiến, ATI 68800 (Mach32) lên kệ vào cuối năm 1992. Với bộ điều khiển VGA tích hợp, bộ xử lý nội bộ 64-bit, hỗ trợ màu lên đến 24-bit và khả năng tăng tốc phần cứng cho con trỏ, nó là một bước tiến đáng kể cho công ty.
Quảng cáo
Card ATI Mach32. Ảnh: VGA Museum.
Graphics Ultra Pro (ở trên) trang bị chip mới, cùng với 2 MB VRAM và giá chào bán là 800 đô la – nó thực sự mạnh mẽ, đặc biệt là với tính năng khẩu độ tuyến tính tùy chọn (optional linear aperture) được bật, cho phép các ứng dụng ghi dữ liệu trực tiếp vào bộ nhớ video. Tuy nhiên, nó không phải là không có vấn đề, giống như các đối thủ cạnh tranh của nó. ATI cung cấp phiên bản Plus giá rẻ hơn với 1 MB DRAM và không hỗ trợ khẩu độ bộ nhớ. Mô hình này ít gặp sự cố hơn và phổ biến hơn do mức giá 500 đô la của nó.
Trong hai năm tiếp theo, doanh số bán hàng của ATI được cải thiện trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt từ những công ty như Cirrus Logic, S3, Matrox, Tseng Laboratories và vô số công ty khác. Năm 1992, một chi nhánh công ty con được mở tại Munich, Đức và một năm sau, công ty chào bán lần đầu ra đại chúng, với cổ phiếu được bán trên Sàn giao dịch Chứng khoán Toronto và Nasdaq.
Tuy nhiên, với nhiều công ty đang cạnh tranh trên cùng một đấu trường, việc luôn luôn duy trì vị trí dẫn đầu so với những công ty khác là vô cùng khó khăn. ATI sớm phải đối mặt với thất bại đầu tiên, khi họ công bố khoản lỗ ròng suýt soát dưới 2 triệu đô la.
Việc các công ty khác có chip tiết kiệm chi phí hơn cũng chẳng ích gì. Vào khoảng thời gian này, Cirrus Logic đã mua một công ty kỹ thuật nhỏ tên là AcuMOS, công ty này đã phát triển giải pháp một khuôn, bao gồm bộ điều khiển VGA, RAMDAC và bộ tạo xung nhịp – trong khi tất cả các model của ATI đều sử dụng các chip riêng biệt cho từng vai trò, nghĩa là các card tốn chi phí nhiều hơn để sản xuất.
Bo mạch ATI Mach64 CT WinCharger. Ảnh: Retronn.de.
Gần hai năm trôi qua trước khi họ có phản ứng thích hợp, dưới dạng chip Mach64. Các biến thể đầu tiên của chip này vẫn sử dụng RAMDAC bên ngoài và đồng hồ, nhưng chúng nhanh chóng được thay thế bằng các model có tích hợp đầy đủ.
Bảng mạch đồ họa mới này tiếp tục truyền cảm hứng cho vô số dòng sản phẩm, đặc biệt là trong địa hạt OEM. Xpression, WinTurbo, Pro Turbo và Charger đều đã trở thành những cái tên quen thuộc trong PC gia đình và văn phòng.
Bất chấp sự chậm trễ trong việc tung ra Mach64, ATI không nhàn rỗi trong các lĩnh vực khác. Những người sáng lập đã liên tục quan sát sự cạnh tranh và thấy trước sự thay đổi trong thị trường đồ họa. Họ đã tuyển mộ một đội ngũ chuyên gia đồ họa có trụ sở tại Boston từ Tập đoàn Kubota và giao nhiệm vụ cho họ thiết kế thế hệ bộ xử lý tiếp theo để nắm bắt cơ hội một khi sự thay đổi bắt đầu, trong khi các kỹ sư còn lại tiếp tục cải tiến các con chip hiện tại của họ.
Kiến trúc Rage
Hai năm sau khi tung ra các card chạy bằng Mach64, ATI đã đưa một bộ xử lý mới ra ánh đèn sân khấu vào tháng 4 năm 1996. Có tên mã là Mach64 GT, nhưng được tiếp thị với tên 3D Rage, đây là bộ xử lý đầu tiên của công ty cung cấp cả khả năng tăng tốc 2D và 3D.Quảng cáo
Về lý thuyết, các card 3D Xpression sử dụng con chip này có vẻ là những model chiến thắng thực sự – hỗ trợ đổ bóng Gouraud, ánh xạ kết cấu chính xác theo phối cảnh (PCTM) và lọc kết cấu song tuyến tính đều có mặt. Chạy ở tốc độ 44 MHz, ATI tuyên bố 3D Rage có thể đạt tốc độ lấp đầy điểm ảnh cao nhất là 44 Mpixels/giây, mặc dù những tuyên bố về hiệu suất này có một số cảnh báo.
3D Rage được phát triển dựa trên Direct3D mới của Microsoft. Tuy nhiên, API này không chỉ bị trì hoãn mà còn trải qua những thay đổi đặc điểm kỹ thuật liên tục trước khi phát hành sau cùng vào tháng 6 năm 1996. Kết quả là ATI phải phát triển API của riêng mình cho 3D Rage và chỉ một số ít nhà phát triển chấp nhận nó.
Bộ xử lý của ATI không hỗ trợ bộ đệm-z, nghĩa là bất kỳ trò chơi nào sử dụng nó sẽ không chạy và tốc độ lấp đầy điểm ảnh được quảng cáo chỉ có thể đạt được với đa giác đổ bóng phẳng hoặc những đa giác được tô màu bằng ánh xạ kết cấu không chính xác theo phối cảnh (Non-PTCM). Khi áp dụng tính năng lọc song tuyến tính hoặc PCTM, tốc độ lấp đầy ít nhất sẽ giảm một nửa.
Card ATI 3D Rage. Ảnh: VGA Museum.
Tệ hơn nữa, chỉ 2 MB EDO DRAM (Extended Data Out) trên các model 3D Xpression đời đầu chậm và bị giới hạn khả năng kết xuất màu 16-bit đến độ phân giải tối đa là 640 x 480. Ngoài sự tệ hại trên, thậm chí trong các trò chơi nó có thể chạy, thì hiệu suất 3D của bộ xử lý Rage không gây được ấn tượng.
May mắn thay, sản phẩm có một số điểm tích cực – nó được định giá hợp lý khoảng 220 đô la, và khả năng tăng tốc 2D và MPEG-1 của nó rất đáng khen ngợi so với mức giá đó. Các hợp đồng OEM của ATI đảm bảo rằng nhiều PC được bán với card 3D Xpression bên trong, giúp duy trì nguồn doanh thu ổn định.
Một phiên bản cập nhật của Mach64 GT (còn gọi là 3D Rage II) xuất hiện vào cuối năm đó. Sản phẩm lặp lại này đã hỗ trợ bộ đệm-z và kết cấu xếp chồng lên nhau, cùng với một loạt các API và trình điều khiển (driver) cho nhiều hệ điều hành. Hiệu suất được cải thiện nhờ tốc độ xung nhịp cao hơn và bộ nhớ đệm kết cấu lớn hơn, nhưng vẫn kém ấn tượng, đặc biệt là so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh mới.
Được phát hành vào tháng 10 năm 1996, card Đồ họa 3dfx Voodoo (ảnh trên) chỉ dành cho 3D, nhưng khả năng kết xuất của nó đã khiến card Rage II trông giống như sản phẩm thứ cấp. Không có sản phẩm nào của ATI sánh được với nó.
ATI đã đầu tư nhiều hơn vào thị trường PC rộng lớn hơn. Họ đã phát triển một chip mã hóa TV chuyên dụng, ImpacTV, và cùng với việc bổ sung khả năng tăng tốc MPEG-2 trong chip 3D Rage II, khách hàng có thể mua một card đa phương tiện tất cả trong một với số tiền tương đối khiêm tốn.
Xu hướng này tiếp tục với bản cập nhật tiếp theo vào năm 1997, mang tên 3D Rage Pro. Bất chấp khả năng kết xuất đã nâng cao của nó, Riva 128 mới của Nvidia, khi được ghép nối với một CPU có năng lực, có hiệu năng vượt trội hơn đáng kể so với sản phẩm của ATI.
Tuy nhiên, các card như [email protected] đã thu hút những người mua có ngân sách hạn chế với bộ tính năng toàn diện của chúng. Model All-In-Wonder đã minh họa cho điều này (hình bên dưới). Đó là một card đồ họa Rage Pro tiêu chuẩn được trang bị một bộ dò TV chuyên dụng và phần cứng quay video.
Bảng mạch ATI 3D Rage Pro AGP 2x. Ảnh: VGA Museum.
Khi sự phát triển của chip đồ họa tăng tốc, các công ty nhỏ hơn phải vật lộn để cạnh tranh và ATI đã thâu tóm một đối thủ cũ là Tseng Laboratories vào cuối năm 1996. Đội ngũ kỹ sư và chuyên gia mới đã đưa đến một phiên bản cập nhật đáng kể cho kiến trúc Rage vào năm 1998 - Rage 128. Nhưng vào thời điểm này, cả 3dfx Interactive, Matrox và Nvidia đều có thiết kế chip ấn tượng và một loạt sản phẩm trên thị trường. Các thiết kế của ATI đơn giản là không thể cạnh tranh ở cấp cao nhất.
Tuy vậy, các sản phẩm của ATI đã thành công ở những thị trường khác, đặc biệt là trong địa hạt máy tính xách tay và thiết bị nhúng, đảm bảo nguồn doanh thu cao hơn bất kỳ công ty đồ họa nào khác. Tuy nhiên, những thị trường này cũng có tỷ suất lợi nhuận thấp.
Giai đoạn cuối những năm 1990 chứng kiến một số thay đổi trong công ty - Lee Lau và Benny Lau rời đi cho những dự án kinh doanh mới, trong khi các công ty đồ họa khác (Chromatic Research và một phần của Real3D) được mua lại. Bất chấp những thay đổi này, quá trình phát triển chip vẫn tiếp tục không suy giảm, dẫn đến thứ cuối cùng sẽ là phiên bản áp chót của 3D Rage được giới thiệu trong một loạt model mới.
Mặt trước của card Rage Fury MAXX. Ảnh: Retronn.de.
Chip Rage 128 Pro cung cấp sức mạnh cho card Rage Fury dành cho việc chơi game và bo mạch Xpert 2000 dành cho máy tính văn phòng. ATI thậm chí còn gắn hai bộ xử lý trên một card, Rage Fury MAXX (hình trên), để cạnh tranh với những card tốt nhất từ 3dfx và Nvidia.
Trên lý thuyết, các con chip trong model cụ thể này có khả năng mang lại hiệu suất gần gấp đôi so với Rage Fury tiêu chuẩn. Thật không may, nó không tốt bằng GeForce 256 mới của Nvidia và nó mắc hơn; nó cũng thiếu hỗ trợ cho các phép tính chiếu sáng và biến đổi đỉnh tăng tốc cho phần cứng (TnL), một tính năng mới của Direct3D 7 vào thời điểm đó.
Rõ ràng là nếu ATI muốn được coi là công ty dẫn đầu thị trường trong mảng game, thì họ cần phải tạo ra một thứ gì đó đặc biệt một lần nữa.
Một thiên niên kỷ mới, một thương vụ mua lại mới
Khi mà thương hiệu Rage đã gắn liền với những chiếc card giá rẻ nhưng hiệu quả, thì ATI bắt đầu thiên niên kỷ mới bằng những thay đổi quan trọng. Họ đã đơn giản hóa tên mã của kiến trúc cũ – Rage 6c trở thành R100 – và giới thiệu một dòng sản phẩm mới: Radeon.Tuy nhiên, những thay đổi không chỉ ở bề ngoài. Họ đã đại tu chip xử lý đồ họa (GPU, theo như cách gọi ngày càng phổ biến của nó), biến nó thành một trong những chip kết xuất cấp độ hàng tiêu dùng tiên tiến nhất vào thời điểm đó.
Một mạch ống đỉnh (vertex pipeline), hoàn toàn có khả năng Chuyển đổi và Chiếu sáng phần cứng (TnL), được đưa vào một công cụ thiết lập tam giác phức. Công cụ này có thể sắp xếp và lọc bỏ các đa giác dựa trên khả năng hiển thị của chúng trong một cảnh. Đổi lại, công cụ này được đưa vào hai mạch ống pixel, với mỗi mạch ống chứa ba đơn vị ánh xạ kết cấu.
Card đồ họa Radeon đầu tiên, ATi Radeon 256 DDR, xung nhịp GPU 166 MHz. Ảnh: Hardware Museum.
Thật không may, các tính năng tiên tiến của nó lại là con dao hai lưỡi. API kết xuất được sử dụng phổ biến nhất cho game vào thời điểm đó, Direct3D 7, không hỗ trợ tất cả các chức năng của nó và phiên bản kế nhiệm của nó cũng không được hỗ trợ. Chỉ có thông qua các tiện ích mở rộng của OpenGL và ATI thì toàn bộ khả năng của nó mới có thể thực hiện đầy đủ.
Card đồ họa Radeon đầu tiên được tung ra thị trường vào ngày 1 tháng 4 năm 2000. Bất chấp những câu chuyện cười có thể xảy ra về ngày cá tháng tư, sản phẩm này không phải là vấn đề đáng bỡn cợt. Với 32 MB DDR-SDRAM, tốc độ xung nhịp 166 MHz và giá bán lẻ khoảng 280 đô la, nó có thể cạnh tranh với các dòng Voodoo5 của 3dfx và GeForce2 của Nvidia.
Điều này chắc chắn đúng khi chơi trò chơi ở chế độ màu 32 bit và ở độ phân giải cao, nhưng ở mức cài đặt thấp hơn và chế độ màu 16 bit, tính cạnh tranh còn mạnh hơn rất nhiều. Các trình điều khiển ban đầu có một số lỗi và hiệu suất OpenGL cũng không cao, mặc dù cả hai khía cạnh này đều được cải thiện theo thời gian.
Trong năm tiếp theo, ATI đã phát hành nhiều biến thể của R100 Radeon. Một biến thể sử dụng SDRAM thay vì DDR-SDRAM (rẻ hơn nhưng kém mạnh mẽ hơn), phiên bản DDR-SDRAM 64 MB và Radeon VE giá rẻ chạy chip RV100. Chip RV100 về cơ bản là một chip R100 bị lỗi, với nhiều bộ phận bị vô hiệu hóa để ngăn chặn các lỗi vận hành. Nó có giá cả cạnh tranh với card GeForce2 MX của Nvidia, nhưng giống như bộ xử lý tiền nhiệm của nó, nó không thể sánh kịp.
Dòng sản phẩm GeForce2 của Nvidia đã giữ vương miện hiệu suất. Ảnh: Wikimedia.
Tuy nhiên, ATI vẫn thống trị thị trường OEM và túi tiền của họ đã đầy. Trước khi Radeon tung ra thị trường, ATI một lần nữa đã bắt đầu thu hút những khách hàng tiềm năng đầy hứa hẹn. Họ đã mua lại công ty chip đồ họa ArtX mới thành lập lúc đó với số tiền đáng kể là 400 triệu đô la dưới dạng quyền chọn cổ phiếu. Điều này có vẻ bất thường đối với một doanh nghiệp trẻ như vậy, nhưng ArtX quả thực nổi bật.
Ban đầu bao gồm các kỹ sư từ Silicon Graphics, đội ngũ đứng sau quá trình phát triển Bộ xử lý Tín hiệu Thực tế (Reality Sign Processor) trong máy chơi game Nintendo 64 và họ đã được ký hợp đồng thiết kế một con chip mới cho model kế nhiệm của máy chơi game này rồi. ArtX thậm chí còn có kinh nghiệm tạo ra GPU tích hợp, thứ được cấp phép bởi Tập đoàn ALi cho chipset bo mạch chủ Pentium giá rẻ (Aladdin 7).
Thông qua việc mua lại này, ATI không chỉ đảm bảo được những tài năng kỹ thuật tươi mới mà còn đảm bảo được hợp đồng sản xuất chip đồ họa cho máy chơi game GameCube của Nintendo. Có trụ sở tại Thung lũng Silicon, đội ngũ này được giao nhiệm vụ hỗ trợ quá trình phát triển một bộ xử lý đồ họa mới, có khả năng lập trình cao, mặc dù phải mất vài năm trước khi bộ xử lý này sẵn sàng bước ra thị trường.
Card đồ họa Radeon 8500 chạy chip R200. Ảnh: Hardware Museum.
ATI tiếp tục mô thức của họ là tạo ra các sản phẩm ấn tượng về mặt kỹ thuật nhưng kém hiệu quả vào năm 2001 với việc phát hành chip R200 và thế hệ card đồ họa Radeon tiếp theo, hiện tuân theo quy tắc đặt tên mới là 8000-series.
ATI đã xử lý tất cả những thiếu sót của R100, làm cho nó hoàn toàn tương thích với Direct3D 8, đồng thời bổ sung thêm nhiều mạch ống và tính năng. Trên lý thuyết, kiến trúc mới này đem lại nhiều lợi ích hơn bất kỳ sản phẩm nào khác trên thị trường. Đó là sản phẩm duy nhất hỗ trợ pixel shader v1.4, làm tăng cao kỳ vọng rằng nó sẽ thành công.
Nhưng một lần nữa, ngoài điểm chuẩn tổng hợp và những con số chạm đỉnh về mặt lý thuyết, card đồ họa mang danh hiệu tốt nhất dành cho người tiêu dùng của ATI đơn giản là không nhanh bằng của Nvidia. Thực tế này bắt đầu bộc lộ từ năm 1999 đến năm 2001. Bất chấp tích lũy được 3,5 tỷ USD doanh thu, ATI vẫn ghi nhận khoản lỗ ròng gần 17 triệu USD.
Trái lại, Nvidia, đối thủ cạnh tranh chính của nó, kiếm được chưa đầy một nửa doanh thu của ATI nhưng kiếm được 140 triệu USD lợi nhuận ròng, phần lớn là do bán một lượng đáng kể card đồ họa cao cấp với tỷ suất lợi nhuận lớn hơn nhiều so với card OEM cơ bản.
Một phần khoản lỗ của ATI bắt nguồn từ việc mua lại của họ - sau ArtX, ATI đã mua một phần của công ty Đồ họa Appian (cụ thể là bộ phận phát triển hệ thống đầu ra đa màn hình) cùng thương hiệu và đội ngũ FireGL của hãng Diamond Multimedia. Cuộc mua lại thứ hai đã tạo được chỗ đứng trên thị trường máy trạm, vì FireGL đã tạo dựng được danh tiếng vững chắc trong những năm đầu bằng cách sử dụng chip đồ họa của 3DLabs.
Nhưng ATI không thể đơn giản là vươn lên dẫn đầu. Họ cần nhiều hơn là việc chỉ có vô số hợp đồng có doanh thu cao, biên lợi nhuận thấp. Họ cần một card đồ họa vượt trội về mọi mặt có thể so với mọi thứ khác trên thị trường. Một lần nữa.
Chiếc card đồ họa sát thủ cuối cùng cũng đến
Trong suốt nửa đầu năm 2002, nhiều tin đồn và bình luận có chủ đích từ các nhà phát triển về chip đồ họa R300 sắp ra mắt của ATI bắt đầu lan truyền trên internet.Thiết kế của GPU thế hệ tiếp theo này chịu ảnh hưởng nặng nề bởi đội ngũ kỳ cựu từ ArtX. Một số con số được quảng cáo – chẳng hạn như số lượng bóng bán dẫn gấp đôi so với R200, tốc độ xung nhịp cao hơn 20%, các mạch ống pixel dấu chấm động 128 bit và tính năng khử răng cưa gần như không ảnh hưởng đến hiệu suất – dường như quá tốt để trở thành sự thật.
Đương nhiên, như cách mọi người thường làm, hầu hết đều bác bỏ những tuyên bố này khi cho rằng chúng chỉ là cường điệu. Xét cho cùng, ATI đã nổi tiếng về việc hứa hẹn quá mức và thực hiện không đầy đủ.
Một trong những sản phẩm vĩ đại nhất mọi thời đại trong lịch sử GPU, card đồ họa Radeon 9700 Pro. Ảnh: PixelPipes.
Nhưng khi chiếc ATI Radeon 9700 Pro trị giá 400 đô la xuất hiện vào tháng 8, trang bị chip R300 mới, hiệu suất thực tế của sản phẩm này là một bất ngờ lớn. Mặc dù không phải tất cả các tin đồn đều hoàn toàn chính xác, nhưng tất cả đều đánh giá thấp sức mạnh của chiếc card này. Trong mọi bài đánh giá, mẫu card mới của ATI hoàn toàn vượt trội so với các đối thủ cạnh tranh; cả Matrox Parhelia-512 và Nvidia GeForce4 Ti 4600 đều không thể cạnh tranh.
Mọi khía cạnh trong thiết kế bộ xử lý đã được tinh chỉnh tỉ mỉ. Việc tinh chỉnh này bao gồm từ thanh ngang (crossbar, một loại liên kết trong GPU giúp các thành phần giao tiếp với nhau) hiệu quả cao và bus bộ nhớ 256 bit cho đến lần đầu tiên sử dụng cách bao gói flip-chip (flip-chip packaging) để cho chip đồ họa có điều kiện đạt xung nhịp cao hơn.
Với số lượng mạch ống gấp đôi so với 8500 và hoàn toàn tuân thủ Direct3D 9 (vẫn phải mất vài tháng nữa để API này phát hành, vào tháng 12/2002), R300 là một tuyệt tác kỹ thuật. Ngay cả các trình điều khiển, một điểm yếu lâu nay của ATI, cũng ổn định và giàu tính năng.
Radeon 9700 Pro và Radeon 9700 chậm hơn, chỉ dành cho bên thứ ba đã thành công tức thì, thúc đẩy doanh thu vào năm 2003. Lần đầu tiên sau ba năm, thu nhập ròng cũng dương. Dòng GeForce FX 5800 dựa trên chip NV30 của Nvidia, được phát hành vào mùa xuân, đã tiếp sức thêm cho ATI – vì sản phẩm này được tung ra thị trường muộn, ngốn điện, nóng và bị hỏng hóc do Nvidia chế tạo nó vô cùng cẩu thả.
Chip NV30, giống như R300, được cho là có tám mạch ống pixel. Tuy nhiên, trong khi các màu sắc được xử lý của ATI ở mức dấu chấm động 24 bit (FP24, mức tối thiểu cần thiết cho Direct3D 9), thì của Nvidia được cho là 32 bit đầy đủ. Ngoại trừ việc, điều đó không hoàn toàn đúng.
Mặt trước card Asus GeForce FX 5800 Ultra từ nVidia, không phải là một trong những GPU vĩ đại nhất mọi thời đại. Ảnh: Hardware Museum.
GPU mới vẫn có bốn mạch ống, mỗi mạch ống có hai đơn vị kết cấu, vậy làm sao có thể khẳng định là tám? Con số đó giải thích cho các phép toán cụ thể, chủ yếu liên quan đến đọc/ghi bộ đệm-z và bộ đệm tô khuôn (stencil buffer) .
Về bản chất, mỗi ROP (đơn vị kết xuất đầu ra) có thể xử lý hai phép tính giá trị độ sâu trên mỗi xung nhịp – một tính năng cuối cùng sẽ trở thành tiêu chuẩn cho mọi GPU. Yêu cầu dấu chấm động 32-bit (FP32) là một câu chuyện tương tự; đối với các phép toán về màu, thay vì thế trình điều khiển thường sẽ buộc ở mức FP16.
Trong hoàn cảnh thích hợp, GeForce FX 5800 Ultra vượt trội so với Radeon 9700 Pro, nhưng ở hầu hết mọi lúc thì card ATI tỏ ra vượt trội – đặc biệt khi sử dụng khử răng cưa (AA) và lọc kết cấu bất đẳng hướng (AF).
Các nhà thiết kế đã kiên trì cải tiến R300 và mỗi phiên bản kế tiếp nhau (R420 năm 2004, R520 năm 2005) đều đủ sức đối đầu với những gì tốt nhất từ Nvidia – mạnh hơn trong các trò chơi Direct3D, mạnh hơn nhiều với AA kết hợp AF, nhưng chậm hơn trong các tựa game OpenGL, đặc biệt là những game sử dụng bộ công cụ của nhà phát triển id Software.
Doanh thu và lợi nhuận ổn vững là đặc trưng của giai đoạn này và sự cạnh tranh cân bằng có nghĩa là người tiêu dùng được hưởng lợi từ các sản phẩm xuất sắc trải dài ở mọi mức ngân sách. Vào năm 2005, ATI đã mua lại Terayon Communication Systems để củng cố vị trí thống trị của mình trong các hệ thống TV tích hợp và vào năm 2006, đã mua BitBoys Oy để củng cố chỗ đứng của mình trong ngành thiết bị cầm tay.
ATI Xenos trên máy chơi game Xbox360, một hình mẫu sớm sủa về tương lai của GPU. Ảnh: Oleg Kashirin.
Thiết kế R300 của ATI đã thu hút sự chú ý của Microsoft, dẫn đến việc gã khổng lồ công nghệ này ký hợp đồng với ATI để phát triển bộ xử lý đồ họa cho máy chơi game Xbox tiếp theo của họ, 360. Khi chiếc máy này ra mắt vào tháng 11 năm 2005, hướng đi của các GPU và API đồ họa trong tương lai đã trở nên rõ ràng – một kiến trúc đổ bóng thống nhất hoàn toàn trong đó các mạch ống đỉnh và mạch ống pixel rời rạc sẽ hợp nhất thành một mảng đơn vị xử lý duy nhất.
Mặc dù ATI hiện đã đi trước một bước so với các đối thủ cạnh tranh trong lĩnh vực này, nhưng họ vẫn cần phải duy trì tốc độ tăng trưởng của mình. Giải pháp cho vấn đề hóc búa này đến thật bất ngờ.
Toàn bộ thay đổi nằm ở giới chóp bu
Năm 2005, người đồng sáng lập, Chủ tịch kiêm Giám đốc Điều hành lâu năm, Kwok Yuen Ho, đã nghỉ việc tại ATI. Ông này, cùng bà vợ và một số người khác đã bị điều tra vì giao dịch nội gián cổ phiếu công ty trong hai năm, kể từ năm 2000. Mặc dù cặp vợ chồng này được miễn trừ mọi cáo buộc, nhưng bản thân ATI lại không chịu trả gần 1 triệu đô la tiền phí phạt vì đã lừa dối cơ quan quản lý.Ông Ho đã từ chức CEO vào thời điểm đó. David Orton, cựu Giám đốc Điều hành của ArtX, đã tiếp quản vào năm 2004. James Fleck, một doanh nhân thành đạt và giàu có, đã thay thế Ho làm Chủ tịch. Lần đầu tiên sau 20 năm, ATI có một bộ sậu lãnh đạo chẳng có bất kỳ mối liên hệ nào với nguồn gốc của nó.
Năm 2005, công ty đạt doanh thu cao nhất từ trước đến nay - cao hơn mức 2.2 tỷ đô la một chút. Trong khi thu nhập ròng khiêm tốn là 17 triệu USD, đối thủ cạnh tranh duy nhất của ATI trên thị trường, Nvidia, cũng không khá hơn là bao, mặc dù có thị phần lớn hơn và lợi nhuận lớn hơn.
Với tâm thế tích cực này, ban lãnh đạo mới đã tự tin thực hiện mục tiêu của họ là thúc đẩy tăng trưởng doanh thu bằng cách phát triển các lãnh vực yếu hơn và củng cố thế mạnh của mình.
AMD đã xuất hiện đột ngột trên chặng đường của ATI. Ảnh: Chip.pl.
Vào tháng 7 năm 2006, gần như hoàn toàn bất ngờ, AMD công bố ý định mua lại ATI. Cuộc trao đổi trị giá 4.2 tỷ đô la tiền mặt (60% trong số đó đến từ khoản vay ngân hàng) và 1.2 tỷ đô la cổ phiếu. AMD ban đầu tiếp cận chào mua Nvidia nhưng họ đã từ chối các điều khoản được đề xuất của thỏa thuận.
Việc mua lại là một canh bạc lớn đối với AMD, nhưng ATI đã rất phấn khởi và vì một lý do chính đáng. Đây là cơ hội để đẩy Nvidia ra khỏi thị trường chipset bo mạch chủ. ATI có khả năng có thể sử dụng các xưởng đúc riêng của AMD để sản xuất một số GPU của mình và các thiết kế của họ có thể được tích hợp vào CPU.
AMD rõ ràng là sẵn sàng chi rất nhiều tiền và có sự hỗ trợ tài chính (từ ngân hàng) để làm như vậy. Trên hết, thỏa thuận này cũng có nghĩa là tên của ATI sẽ vẫn được sử dụng.
Việc mua lại được hoàn tất vào tháng 10 năm 2006 và ATI chính thức trở thành một phần của Tập đoàn Sản phẩm Đồ họa của AMD. Đương nhiên là đã có một số cải tổ trong cơ cấu quản lý, nhưng mặt khác thì hoạt động kinh doanh vẫn bình thường. Thành quả đầu tiên là việc phát hành GPU R600 (ảnh dưới) vào tháng 5 năm 2007 – kiến trúc đổ bóng hợp nhất đầu tiên của ATI, được gọi là TeraScale, dành cho thị trường chip x86.
Thiết kế mới rõ ràng dựa trên công việc đã làm với chip đồ họa của Xbox 360, nhưng các kỹ sư đã tăng quy mô mọi thứ lên cao hơn đáng kể. Thay vì có các mạch ống chuyên dụng cho các bộ đổ bóng đỉnh và đổ bóng pixel, GPU được tạo thành từ bốn dãy gồm mười sáu Đơn vị Xử lý Luồng (mỗi đơn vị chứa năm Đơn vị Logic Số học hoặc còn gọi là ALU) có thể xử lý bất kỳ bộ đổ bóng nào.
Tự hào có tới 710 triệu bóng bán dẫn và kích thước 420 mm vuông, R600 có kích thước gấp đôi R520. Card đầu tiên sử dụng GPU này là Radeon HD 2900 XT, cũng có các thông số ấn tượng – mức tiêu thụ điện năng 215 W, có bộ làm mát gồm hai khe và bộ nhớ GDDR3 512 MB rất nhanh trên bus bộ nhớ 512 bit.
Nvidia đã đánh bại ATI trên thị trường bằng cách tung ra một kiến trúc hợp nhất (được gọi là Tesla) vào năm trước. Bộ xử lý G80 của nó, được đặt trong GeForce 8800 GTX và bị cắt giảm cho bản GTS, được ra mắt vào tháng 11 năm 2006. Nvidia sau đó tiếp tục với Ultra có xung nhịp cao hơn vào tháng 5 năm 2007. Khi được đưa vào game thực tế, điểm số tốt nhất của ATI chậm hơn Ultra và GTX , nhưng tốt hơn so với GTS.
Ưu điểm tiết kiệm của Radeon HD 2900 XT là chính là giá của nó. Với giá 399 đô la, nó rẻ hơn 200 đô la so với MSRP của GeForce 8800 GTX (mặc dù khoảng cách này đã thu hẹp xuống còn khoảng 100 đô la vào thời điểm card R520 được ra mắt) và đáng kinh ngạc là thấp hơn 420 đô la so với bản Ultra của nVidia. Khi đối chiếu với số tiền bỏ ra thì hiệu suất vẫn là tuyệt vời.
Tại sao nó lại không tốt hơn? Một số thiếu sót về hiệu suất, so với các mẫu của Nvidia, có thể do thực tế là R520 có ít Đơn vị Ánh xạ Kết cấu (TMU) và Đơn vị Kết xuất Đầu ra (ROP) hơn so với G80. Các game vào thời điểm đó vẫn phụ thuộc nhiều vào kết cấu và tốc độ lấp đầy (kể cả Crysis).
Tốc độ xử lý đổ bóng của TeraScale cũng phụ thuộc nhiều vào khả năng của trình biên dịch trong việc phân chia đúng cách các chỉ lệnh (instruction) để tận dụng cấu trúc điện toán. Nói tóm lại, thiết kế này tiến bộ và hướng tới tương lai (việc sử dụng GPU trong máy chủ vẫn còn sơ khai), nhưng nó không lý tưởng cho các game của thời kỳ đó.
ATI đã chứng minh rằng họ hoàn toàn có khả năng tạo ra một kiến trúc đổ bóng thống nhất dành riêng cho việc chơi game với chip Xenos trong Xbox 360. Do đó, quyết định tập trung nhiều hơn vào hoạt động tính toán bằng GPU ắt hẳn là do áp lực nội bộ từ ban quản lý cấp cao.
Sau khi đầu tư rất nhiều vào ATI, AMD đã đặt nhiều hy vọng vào dự án Fusion của mình – sự tích hợp CPU và GPU vào một con chip gắn kết duy nhất, mà nó cho phép cả hai bộ phận hoạt động song song trên một số tác vụ nhất định.
Hướng đi này cũng được thực hiện với phiên bản lặp lại của GPU TeraScale (năm 2008) - RV770. Trong Radeon HD 4870 cao cấp nhất (ở trên), các kỹ sư đã tăng số lượng đơn vị đổ bóng lên gấp 2.5 lần chỉ để có thêm 33% bóng bán dẫn.
Việc sử dụng bộ nhớ GDDR5 nhanh hơn cho phép kích thước bus bộ nhớ giảm đi một nửa. Cùng với nút tiến trình 55nm của TSMC, toàn bộ khuôn (die) đã nhỏ hơn gần 40% so với chip R600. Tất cả điều này dẫn đến việc card được bán lẻ ở mức 300 đô la.
Một lần nữa, nó vẫn chỉ về nhì sau các card đồ họa GeForce mới nhất của Nvidia trong hầu hết mọi game. Tuy nhiên, trong khi GeForce GTX 280 cực kỳ nhanh, thì giá bán lẻ lúc ra mắt của nó lại cao hơn gấp đôi so với Radeon HD 4870.
Kỷ nguyên card đồ họa của ATI là tốt nhất về hiệu năng chơi game tuyệt đối đã qua, nhưng không ai đánh bại được chúng khi xét về giá trị đồng tiền. Không giống như kỷ nguyên 3D Rage khi các sản phẩm rẻ và chậm, những chiếc card Radeons mới nhất có giá cả phải chăng nhưng vẫn mang lại hiệu suất thỏa đáng.
Vào cuối mùa hè năm 2009, kiến trúc TeraScale sửa đổi đã giới thiệu một loạt GPU mới. Dòng này được gọi là Evergreen, trong khi con chip cụ thể được sử dụng trong card Radeon HD 5870 cao cấp được gọi là Cypress hoặc RV870. Bất chấp tên gọi dễ gây bối rối, các kỹ sư đã tăng gấp đôi số lượng bóng bán dẫn, số đơn vị đổ bóng, số đơn vị ánh xạ kết cấu, v.v.
Hiệu suất chơi trò chơi rất tuyệt vời, cùng mức tăng nhỏ trong giá chào bán khuyến nghị và mức tiêu thụ điện năng là có thể chấp nhận được. Chỉ có những card GPU kép, chẳng hạn như GeForce GTX 295 của Nvidia và Radeon HD 4870 X2 của chính ATI, mới nhanh hơn, mặc dù chúng đương nhiên đắt hơn. HD 5870 chỉ phải đối mặt với sự cạnh tranh thực sự sáu tháng sau đó khi Nvidia phát hành kiến trúc Fermi mới trong GeForce GTX 480.
Mặc dù không hoàn toàn quay trở lại những ngày tháng của 9700 Pro, nhưng chip TeraScale 2 cho thấy rằng các thiết kế của ATI không hề bị gạt bỏ.
Một lời chào tạm biệt cho ATI?
Vào năm 2010, ATI đã có một danh mục GPU phong phú - card đồ họa rời của họ trải rộng trên tất cả các phân khúc giá và mặc dù thị phần của họ chỉ bằng một nửa của Nvidia, nhưng chip Radeon vẫn phổ biến trong máy tính xách tay của nhiều nhà sản xuất. Phạm vi card FireGL chuyên nghiệp (dành cho các ứng dụng đồ họa, sáng tạo nội dung số) của họ phát triển mạnh, đồng thời số hợp đồng OEM và GPU cho máy chơi game cũng tăng lên mạnh mẽ.Các khía cạnh kém thành công hơn đã được tinh giản bớt. Chipset bo mạch chủ và dòng All-in-Wonder tập trung vào đa phương tiện đã ngừng sản xuất vài năm trước đó và AMD đã bán mảng chipset Imageon, được sử dụng trong các thiết bị cầm tay, cho Qualcomm (tiền thân của GPU Adreno trong điện thoại thông minh).
Bất chấp tất cả những điều này, ban lãnh đạo của AMD tin rằng thương hiệu ATI không có đủ chỗ đứng riêng, đặc biệt là khi so với tên tuổi của AMD. Do đó, vào tháng 8 năm 2010, AMD thông báo rằng ba chữ cái đã gắn liền với card đồ họa trong 25 năm sẽ bị loại bỏ khỏi tất cả các sản phẩm trong tương lai – tức là ATI sẽ không còn tồn tại như một thương hiệu.
AMD, ngôi nhà miên viễn ATI. Ảnh: F Wong.
Tuy nhiên, điều này chỉ đúng đối với thương hiệu. Công ty thực tế vẫn hoạt động, mặc dù chỉ là một phần của AMD. Vào thời kỳ đỉnh cao, ATI có hơn 3500 nhân viên và một số văn phòng toàn cầu. Ngày nay, ATI giao dịch dưới tên ATI Technologies ULC, với trụ sở ban đầu vẫn được sử dụng và lực lượng lao động của công ty được tích hợp hoàn toàn vào các bộ phận có liên quan trong cơ cấu tổ chức của AMD.
Đội ngũ này tiếp tục đóng góp cho việc nghiên cứu và phát triển công nghệ đồ họa, bằng chứng là danh sách bằng sáng chế và vị trí tuyển dụng. Nhưng tại sao AMD không hấp thụ hoàn toàn ATI, giống như Nvidia đã làm với 3dfx chẳng hạn? Các điều khoản của cuộc sáp nhập năm 2006 có nghĩa là ATI sẽ trở thành công ty con của AMD.
Mặc dù có thể ATI cuối cùng đã bị đóng cửa và được hấp thụ hoàn toàn, nhưng mức đầu tư và các vụ kiện gần như vô tận về những vi phạm bằng sáng chế mà ATI đã tiếp tục giải quyết có nghĩa là nó vẫn chưa đi đến đâu, nếu có.
Tuy nhiên, với một khối lượng đáng kể trong hoạt động phát triển GPU hiện do chính AMD thực hiện ở nhiều địa điểm khác nhau trên thế giới, thì việc dán nhãn cho chip đồ họa (dù là trong card Radeon hay bộ xử lý máy chơi game mới nhất) là sản phẩm của ATI không còn chính xác nữa.
Thương hiệu ATI hiện đã vắng bóng hơn một thập kỷ, nhưng di sản và những ký ức đẹp đẽ về các sản phẩm cũ của họ vẫn tồn tại. Nhánh ATI Technologies tiếp tục đóng góp cho lĩnh vực đồ họa gần 40 năm sau khi thành lập và chúng ta có thể nói rằng nó vẫn đang bán chạy. Đã qua đi nhưng chưa bị quên lãng? Không hề, ATI không biến mất và không bị quên lãng.
Lược dịch từ bài của Nick Evanson, TechSpot.
==***==
==***==
Nơi hội tụ Tinh Hoa Tri Thức - Khơi nguồn Sáng tạo
Để tham gia khóa học công nghệ truy cập link: http://thuvien.hocviendaotao.com
Mọi hỗ trợ về công nghệ email: dinhanhtuan68@gmail.com
---
Khóa học Hacker và Marketing từ A-Z trên ZALO!
Khóa học Hacker và Marketing từ A-Z trên Facebook!
Bảo mật và tấn công Website - Hacker mũ trắng
KHÓA HỌC LẬP TRÌNH PYTHON TỪ CƠ BẢN ĐẾN CHUYÊN NGHIỆP
Khóa học Lập trình Visual Foxpro 9 - Dành cho nhà quản lý và kế toán
Khóa học hướng dẫn về Moodle chuyên nghiệp và hay Xây dựng hệ thống đào tạo trực tuyến chuyên nghiệp tốt nhất hiện nay.
Khóa học AutoIt dành cho dân IT và Marketing chuyên nghiệp
Khoá học Word từ cơ bản tới nâng cao, học nhanh, hiểu sâu
Khóa học hướng dẫn sử dụng Powerpoint từ đơn giản đến phức tạp HIỆU QUẢ Khóa học Thiết kế, quản lý dữ liệu dự án chuyên nghiệp cho doanh nghiệp bằng Bizagi Khóa học Phân tích dữ liệu sử dụng Power Query trong Excel
Khóa học Lập trình WEB bằng PHP từ cơ bản đến nâng cao
Khóa học "Thiết kế bài giảng điện tử", Video, hoạt hình kiếm tiền Youtube bằng phần mềm Camtasia Studio Khóa học HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ VIDEO CLIP CHO DÂN MARKETING CHUYÊN NGHIỆP HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ QUẢNG CÁO VÀ ĐỒ HỌA CHUYÊN NGHIỆP VỚI CANVA Hãy tham gia khóa học để trở thành người chuyên nghiệp. Tuyệt HAY!😲👍
GOOGLE SPREADSHEETS phê không tưởng Hãy tham gia khóa học để biết mọi thứ
Khóa học sử dụng Adobe Presenter-Tạo bài giảng điện tử
Để thành thạo Wordpress bạn hãy tham gia khóa học Khóa học sử dụng Edmodo để dạy và học hiện đại để thành công ==***== Bảo hiểm nhân thọ - Bảo vệ người trụ cột Cập nhật công nghệ từ Youtube tại link: congnghe.hocviendaotao.com
Tham gia nhóm Facebook
Để tham gia khóa học công nghệ truy cập link: http://thuvien.hocviendaotao.com
Mọi hỗ trợ về công nghệ email: dinhanhtuan68@gmail.com
Bảo mật và tấn công Website - Hacker mũ trắng
KHÓA HỌC LẬP TRÌNH PYTHON TỪ CƠ BẢN ĐẾN CHUYÊN NGHIỆP

Khóa học AutoIt dành cho dân IT và Marketing chuyên nghiệp
Khoá học Word từ cơ bản tới nâng cao, học nhanh, hiểu sâu
Khóa học hướng dẫn sử dụng Powerpoint từ đơn giản đến phức tạp HIỆU QUẢ
Khóa học Thiết kế, quản lý dữ liệu dự án chuyên nghiệp cho doanh nghiệp bằng Bizagi
Khóa học Phân tích dữ liệu sử dụng Power Query trong Excel
Khóa học Lập trình WEB bằng PHP từ cơ bản đến nâng cao
kiếm tiền Youtube bằng phần mềm Camtasia Studio
Khóa học HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ VIDEO CLIP CHO DÂN MARKETING CHUYÊN NGHIỆP
HƯỚNG DẪN THIẾT KẾ QUẢNG CÁO VÀ ĐỒ HỌA CHUYÊN NGHIỆP VỚI CANVA
Hãy tham gia khóa học để trở thành người chuyên nghiệp. Tuyệt HAY!😲👍
GOOGLE SPREADSHEETS phê không tưởng
Hãy tham gia khóa học để biết mọi thứ
Khóa học sử dụng Adobe Presenter-Tạo bài giảng điện tử
Để thành thạo Wordpress bạn hãy tham gia khóa học
Khóa học sử dụng Edmodo để dạy và học hiện đại để thành công
==***==
Bảo hiểm nhân thọ - Bảo vệ người trụ cột
Tham gia nhóm Facebook
Để tham gia khóa học công nghệ truy cập link: http://thuvien.hocviendaotao.com
Mọi hỗ trợ về công nghệ email: dinhanhtuan68@gmail.com
Nguồn: Tinh Tế

Topics: Công nghệ mới